Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Chương 12 - Dream Lake


Chương mười hai.

“Ôi, thật là vui,” Bóng ma nói khi Alex quẹo phải trên đường Spring để vào phố San Juan Valley. “Chúng ta đang đi đâu vậy?”
“Nhà Sam.”
“Chúng ta sẽ dọn dẹp căn gác nữa sao?”
“Trong số những thứ khác.”
“Những thứ gì khác?”
Cáu tiết vì liên tục phải giải thích với ông về mọi động thái, Alex nói. “Tôi muốn bắt kịp anh trai tôi. Tôi đã không nói chuyện với anh ấy một thời gian rồi. Điều đó có okay với ông không ?”
“Cậu định nói cho cậu ấy nghe về chuyện sửa nhà cho Zoe à?”
“Có lẽ Justine đã đề cập đến chuyện đó với anh ấy rồi. Nhưng nếu cô ấy chưa, thì không. Tôi sẽ không kể gì hết.”
“Sao thế? Nó có phải là bí mật lớn lao gì đâu chứ.”
“Nó chưa hoàn toàn được thỏa thuận,” Alex nói gọn lỏn. “Tôi có thể rút lui.”
“Cậu không thể.”
“Để xem.” Alex tìm thấy sự thỏa mãn tai ác trong việc chọc tức bóng ma.
Anh mong đợi tất cả các kiểu tranh cãi và lăng mạ. Nhưng bóng ma lặng thinh khi chiếc bán tải tiến vào khu thương mại.


Alex ghé thăm Rainshadow để giúp Sam lắp đặt một cặp chân đèn lồng trên tường lò sưởi lát bằng những viên gạch thủ công kiểu cổ. Khi họ làm việc, một con chó bun Anh tên Renfield ngồi trên tấm nệm trong góc nhà, quan sát họ với đôi mắt lồi và chiếc miệng mở rộng nhễu nhão. Renfield là một con chó được cứu giúp, với những vấn đề về bệnh tật nhiều đến mức không ai muốn nhận nuôi. Bằng cách nào đó, bạn gái của Mark, Maggie, đã khuyến dụ được anh nhận nó, và dù lúc đầu Sam phản đối, cuối cùng rồi anh ấy cũng nhượng bộ.
Thật đáng ngạc nhiên rằng Renfield không hề chú ý gì đến sự hiện diện của bóng ma trong phòng. “Tôi nghĩ những con chó được cho là có giác quan thứ sáu về những hiện diện mang tính siêu nhiên .” Bóng ma đã từng nhận xét với Alex như thế.
“Trong những ngày tốt nhất của mình,” Alex đã trả lời, “cậu ta cũng chỉ có khoảng ba giác quan làm việc tốt mà thôi.”
Khi họ cùng làm việc với nhau, thật rõ ràng rằng tâm trạng cực kỳ thư giãn của Sam chỉ có thể có được từ việc xảy ra gần đây. Như bóng ma đã tiên đoán, Sam đã đổ vì Lucy Marinn một cách chính thức, mặc dù Sam đã xác định quan điểm rằng đó chỉ là một trong những thỏa thuận không cam kết thường lệ của anh. “Anh trúng số độc đắc với cô gái này,” Sam kể với Alex. “Cô ấy ngọt ngào, quyến rũ, thông minh và cô ấy tuyệt trong việc chỉ cần mối quan hệ thông thường.”
Đã một thời gian dài Alex không thấy anh trai anh bị ám ảnh vì phụ nữ như anh đã có với Lucy Marinn lúc này. Có lẽ là chưa bao giờ. Sam đã luôn xử sự ôn hòa, không bao giờ để cho cảm xúc của anh – hoặc của bất kỳ ai khác – tiến xa hơn.
“Mối quan hệ thông thường này có bao gồm sex không?”
“Nó bao gồm sex tuyệt hảo. Chẳng hạn như, một giờ sau khi bọn anh kết thúc, thân thể anh vẫn còn đang nói ‘cám ơn em’. Và Lucy cũng không muốn cam kết nhiều hơn gì anh.”
“Chúc may mắn với điều đó.” Alex nói. Giữ một chiếc đèn gắn trên tường, anh dùng bút chì phấn vạch dấu vị trí khoan lỗ bắt đinh vít.
Nhiệt tình của Sam giảm đi rõ rệt. “Ý em là gì?”
“Chín mươi chín phần trăm phụ nữ nói họ không muốn cam kết, thì hoặc là họ thầm kín muốn điều đó, hoặc ít nhất, họ muốn anh muốn điều đó.”
“Em đang nói Lucy đùa giỡn với anh à?”
“Nó thậm chí có thể còn tệ hơn. Có lẽ cô ấy thành thật với ý tưởng rằng cô ấy có thể đương đầu với việc đang ở vạch xuất phát, nhưng thực tế thì cô ấy không được trang bị cho điều đó. Trong trường hợp đó…”
“Vạch xuất phát là cái gì thế?”
“Một phụ nữ anh có mối quan hệ không ràng buộc. Nhưng anh lại có sex với cô ấy, và rồi…”
“Xuất phát cái đầu chú mày ấy.” Sam cau có. “Đừng gọi Lucy như thế. Và lần sau, khi em hỏi anh xem cuộc sống của anh thế nào, nhắc anh đừng kể với em.”
“Em có hỏi anh xem anh sống thế nào đâu chứ. Em hỏi anh chuyển cho em cái mũi khoan thợ nề nửa inch kia mà.”
“Đây.” Sam nói với vẻ bực bội, trao cho anh cái mũi khoan.
Trong đôi phút kế tiếp, Alex khoan một lỗ khoan mồi vào gạch và hút sạch bụi của chúng đi. Sam giơ chiếc đèn vào đúng chỗ khi Alex nối dây điện, gài những cái neo móc vào chiếc đèn lồng, và đặt chúng vào lỗ khoan mồi. Anh siết chặt chúng với một vài vòng quay khéo léo của chiếc cờ lê.
“Nhìn tuyệt đấy.” Sam nói. “Để anh thử một cái khác.
Alex gật đầu và nhặt lên chiếc đèn lồng thứ hai, ướm thử nó lên lớp gạch.
“Có vài thứ anh muốn đề cập,” Sam đột nhiên nói. “Mark và Maggie đã định ngày cưới vào giữa tháng Tám. Và Mark vừa yêu cầu anh làm phù rể. Hy vọng rằng điều đó ổn với em.”
“Tại sao nó lại không ổn với em?”
“À, anh ấy chỉ có thể yêu cầu một trong chúng ta. Và anh đoán vì anh là người lớn thứ hai…”
“Anh nghĩ là em muốn làm phù rể ư?” Alex cắt ngang bằng tiếng cười ngắn đầy nhạo báng. “Anh và Mark đã cùng nhau nuôi nấng Holly. Dĩ nhiên anh phải là phù rể rồi. Sẽ là phép lạ nếu như em xuất hiện ở đó đấy.”
“Em phải đến,” Sam nói trong vẻ lo lắng. “Vì Mark.”
“Em biết. Nhưng em ghét đám cưới.”
“Vì Darcy ư?”
“Vì đám cưới là một nghi lễ, nơi một biểu tượng trinh nữ được vây quanh bởi những phụ nữ trong bộ váy xấu xí sánh đôi cùng một chú rể bơ phờ được hộ tống bởi những người bạn mà anh ta đã không gặp trong nhiều năm bỗng dưng xuất hiện một cách thần kỳ. Sau đó là tiệc cưới, nơi khách khứa bị giam giữ như con tin trong hai giờ mà chẳng có gì để ăn ngoại trừ thứ cánh gà âm ấm, hoặc mớ hạnh nhân bọc thứ gì đó kỳ lạ, đám DJ thì cố tẩy não mọi người với những luyến ngắt điện tử và điệu Macarena*, thứ mà những gã ngốc say xỉn luôn nhảy bổ vào. Phần tốt đẹp duy nhất trong một đám cưới là được nốc rượu tự do.”
(*Macarena : Một điệu nhảy Tây Ban Nha thịnh hành vào thời 1990s. – Ct của Sẻ)
“Em có thể nói lại điều đó lần nữa không?” Sam hỏi. “Vì có lẽ anh muốn viết nó ra và sử dụng như một phần bài phát biểu  của anh.”
Trong một góc phòng, bóng ma đang ngồi tựa đầu trên khuỷu gối gập lại của mình.
Hoàn tất dây điện cho chiếc đèn thứ hai, Sam gắn nó vào tường, cột chặt những chiếc neo móc, và đứng lùi lại để ngắm nghía tác phẩm của mình. “Cám ơn, Al. Em có muốn ăn trưa không? Anh có một ít sandwich trong tủ lạnh.”
Alex lắc đầu. “Em sẽ lên gác mái, dọn dẹp thêm một chút.”
“Ồ, nhắc mới nhớ… Holly rất thích chiếc máy đánh chữ cũ mà em tìm thấy. Anh đã cho nó vài nhát xịt của bình phun dầu chống rỉ sét WD-40 và đổ mực vào cuộn ru-băng. Cô bé gần như nổ tung vì vui thích.
“Tuyệt.” Alex thờ ơ nói.
“Phải, nhưng đây mới là phần thú vị. Holly nhận ra lớp lót của chiếc hộp bằng vải tuýt bị lỏng ra, có một góc nhỏ của thứ gì đó nhô ra. Vì thế, cô bé đã kéo nó ra, đó là một mảnh vải kỳ lạ với một lá cờ và vài ký tự của người Trung Hoa trên đó. Và cũng có một bức thư nữa.”
Bóng ma nhấc đầu lên.
“Nó đâu rồi?” Alex hỏi. “Em có thể nhìn nó một chút không?”
Sam hất đầu về hướng ghế sofa. “Nó ở trong ngăn kéo bàn bên cạnh đó.”
Trong lúc Sam thu dọn dụng cụ và hút bụi, Alex đến bên bàn. Bóng ma ở bên cạnh anh ngay lập tức. “Riêng tư chút coi.” Alex thì thầm cảnh báo, nhưng bóng ma không nhúc nhích.
Một cảm giác e sợ bò dọc cổ Alex khi anh mở ngăn kéo và lấy ra một mảnh vải lụa mỏng đã ngả vàng theo năm tháng, dài khoảng tám đến mười inch. Nó đã bị biến màu vài chỗ, những góc vải tối sẫm lại. Một lá cờ Trung Hoa Dân Quốc trên đỉnh. Sáu cột ký tự Trung Hoa được in bên dưới lá cờ.
“Đó là cái gì vậy nhỉ?” Alex tự hỏi thành lời, giọng anh bị chìm khuất trong âm thanh của máy hút bụi.
Tuy vậy, bóng ma nghe thấy anh, lời đáp của ông nhẹ nhưng rõ ràng. “Một lá thư máu.” Thuật ngữ không hề quen thuộc với Alex. Trước khi anh có thể hỏi điều đó nghĩa là gì, bóng ma lặng lẽ nói thêm. “Nó là của tôi.”
Bóng ma đã nhớ lại thứ gì đó, luồng cảm xúc bắn ra như những những làn khói, và Alex không thể chống lại được ngoài việc bị bắt giữ trong giới hạn của chúng.
Thế giới là khói, là lửa, là nỗi kinh hoàng. Ông đã rơi nhanh hơn trọng lực, nảy bật qua bầu trời xanh và những đám mây mọng nước màu trắng . Lớp vỏ kim loại của chiếc máy bay bị xoắn vặn giống như một sợi roi bằng dây cam thảo, khi sức mạnh của thiên đường và địa ngục tác động vào chúng. Đầu gối ông kéo lên và khuỷu tay ông cuộn lại trong tư thế bào thai, điều cuối cùng mà mọi phi công tác chiến sẽ làm trước khi chết. Điều đó không được huấn luyện, chúng là nhận biết khởi thủy của cơ thể để chúng có thể lướt qua được những nỗi đau và sự hủy hoại nhiều hơn chúng có thể chịu đựng được.
Trái tim ông bật ra từng âm tiết tên của một người phụ nữ, lập đi lập lại.
Alex lắc đầu để xóa sạch đi ký ức đau buồn đó, và nhìn vào bóng ma.
“Em đang làm gì với nó vậy?” Anh nghe Sam hỏi.
Bóng ma nhìn chằm chằm vào miếng lụa trên tay Alex. “Họ đã trao chúng cho những phi công Mỹ nhận nhiệm vụ bay ngang qua vùng trời Trung Quốc,” Ông nói. “Phòng trường hợp máy bay rơi. Những chữ đó ngụ ý ‘Những người ngoại quốc này đến để giúp đỡ trong nỗ lực chiến tranh. Binh lính và thường dân nên giải cứu, bảo vệ và cung ứng cho anh ta những chăm sóc y tế.’ Chúng tôi giữ chúng trong áo khoác của chúng tôi – vài người còn khâu chúng vào đó.”
Trong một giọng đều đều, Alex nghe thấy chính mình đang giải thích cho Sam về bức thư máu.
“Thú vị thật.” Sam nói. “Anh thắc mắc không biết cái đó là của ai. Anh muốn tìm hiểu xem ai là chủ nhân chiếc máy đánh chữ, nhưng không có tên trên hộp.”
Alex bắt đầu vươn tay đến bức thư. Anh do dự như thể anh sắp đặt tay vào một ngọn lửa. Anh không muốn đọc những gì được ghi trên mảnh giấy đó. Anh có cảm giác rằng nó không bao giờ được viết với ý định để cho ai tìm thấy.
“Làm đi.” Bóng ma thì thầm, gương mặt ông khắc nghiệt.
Tờ giấy có kích thước giấy văn thư và dễ vỡ. Nó không được ký tên. Cũng không ghi địa chỉ gởi cho ai.

Em đã ghét anh trong nhiều năm em sống mà không có anh. Làm sao một trái tim tan vỡ nhiều như thế này lại vẫn còn có thể tiếp tục đập được ? Làm sao em có thể cảm thấy tồi tệ như thế này mà không chết đi cùng với chúng?
Em đã thâm tím đầu gối để cầu nguyện anh trở về. Không lời nguyện cầu nào được trả lời. Em cố gởi chúng đến thiên đường nhưng chúng đã bị bẫy lại trái đất, như những con cút đốm bên dưới lớp tuyết*. Em cố ngủ và những giấc ngủ chỉ giống như bị ngạt thở mà thôi.
Anh đã đi đâu rồi?
Có lần anh đã nói rằng, nếu em không ở cùng anh, nơi đó không phải thiên đường.
Em không thể mất anh. Hãy trở lại và ám em đi. Trở lại với em đi.

(*Lời ví von này ở những chương sau sẽ được tác giả giải thích rõ ràng hơn. – Ct của Sẻ)

Alex không thể nhìn vào bóng ma. Đã đủ tệ khi đứng bên rìa cảm xúc mà bóng ma cảm nhận, bị bẫy trong vầng hôn ám đau buồn mang đến cảm giác tệ hơn bất kỳ thứ gì anh từng trải qua. Điều đó giống như bị nhiễm phải một chất độc phát tác chậm.
“Anh nghĩ một phụ nữ đã viết bức thư đó.” Anh nghe Sam nói. “Nghe có vẻ giống một phụ nữ, đúng không?”
“Phải.” Alex đáp một cách khó nhọc.
“Nhưng tại sao chúng lại được đánh máy? Anh mong đợi thứ gì đó được viết bằng tay cơ. Anh thắc mắc không biết anh chàng đó đã chết như thế nào?”
Hơn cả nỗi buồn, những làn sóng đau đớn xô đến từ bóng ma, Alex phải cuộn chặt tay thành nắm đấm để chống lại tác động của chúng lên anh, cho dù thế, chỉ như đập vào đám bụi mù. Chẳng có thứ gì dừng lại.
“Thôi đi.” Alex thì thào, cổ họng thít chặt.
“Tôi không thể.” Bóng ma nói.
“Thôi đi cái gì?” Sam hỏi.
“Xin lỗi,” Alex nói. “Em đã nhiễm phải thói quen nói chuyện một mình. Em muốn hỏi điều này, em có thể mang thứ này đi cùng em không?”
“Chắc chắn rồi. Anh không có…” Sam ngừng lời và nhìn anh chăm chú. “Thánh thần thiên địa ơi! Em đang mít ướt đấy ư?”
Trong sự kinh hoàng, Alex bắt đầu nhận ra đôi mắt anh đang sũng nước. Anh sắp bắt đầu khóc thành tiếng. “Bụi.” Anh xoay sở nói. Quay đi chỗ khác, anh nói thêm với giọng bị bóp nghẹt. “Em sẽ lên lầu. Làm việc trên gác mái.”
“Anh sẽ lên và giúp em.”
“Không, Em lên đó. Anh quét dọn dưới đây. Em cần ít thời gian riêng tư.”
“Em đã có nhiều thời gian riêng tư rồi.” Sam nói. “Có lẽ sẽ chẳng có tổn thương gì trong việc có một ít bầu bạn.”
Điều đó gần như khiến Alex bật cười. Anh muốn nói với anh trai anh : Em đã không ở một mình trong nhiều tháng. Em bị ma ám.
Anh có thể cảm thấy sức nặng trong cái nhìn soi mói của Sam. “Al… em có sao không?”
“Em rất ổn.” Alex nói mạnh mẽ, tiến ra khỏi phòng.
Tâm trạng của bóng ma không dịu đi vào lúc họ đến tầng áp mái. Alex quyết định rằng, có vài thứ còn tệ hơn việc bị theo đuôi mọi lúc mọi nơi bởi một bóng ma, đó là bị theo đuôi bởi một bóng ma, kẻ chồng chất tất cả cảm xúc của ông ta lên anh.
“Có lẽ có một thứ mà sự lưu tâm của ông đã bỏ qua,” Alex nói với giọng nghiêm nghị. “Tôi vác gánh nặng của tôi là đủ rồi. Chết tiệt tôi đi nếu tôi còn phải vác cả gánh nặng của ông nữa.”
“Ít nhất thì cậu cũng biết được gánh nặng của cậu là gì.” Bóng ma nói, trừng mắt nhìn anh.
“Phải. Điều đó giải thích tại sao tôi bỏ ra phân nửa thời gian của tôi để uống say và quên nó đi.”
“Chỉ phân nửa thôi sao?” Lời đáp châm biếm vang lên.
Alex vung vẩy miếng vải lụa trên một tay. “Và ông cho rằng thứ này là của ông à?”
“Chấp nhận điều đó đi. Phải, nó là của tôi.”
Alex giơ bức thư trên một tay khác. “Và ông nghĩ cái này viết về ông sao?”
Bóng ma đáp lại bằng cái gật đầu đơn giản. Đôi mắt ông tối như bóng đêm, dáng vẻ ông trông đáng sợ. “Tôi nghĩ Emma đã viết nó.”
“Emma.” Alex chớp mắt ngạc nhiên, cơn giận của anh nhạt dần. “Bà nội của Zoe ư? Ông nghĩ ông và bà ấy…” Chậm rãi, anh đi đến cầu thang và ngồi xuống bậc cao nhất. “Quả là một cú đột phá thần kỳ đấy,” Anh nói, “chẳng có gì để chứng minh hết.”
“Bà ấy là một phóng viên của tờ Herald…”
“Tôi biết. Và bà ấy sống ở đây, và có lẽ có một cơ may cực nhỏ là chiếc máy đánh chữ đó là của bà. Nhưng chẳng có bằng chứng nào hết.”
“Tôi không cần bằng chứng. Tôi đang nhớ lại vài thứ. Tôi nhớ bà ấy. Và tôi biết mảnh vải trên tay cậu là của tôi.”
Alex mở bức thư máu và nhìn nó lần nữa. “Không có cái tên nào trên đây hết. Vì thế ông không thể chắc chắn nó là của ông được.”
“Có dãy số nào trên đó không?”
Alex nhìn kỹ mảnh vải và gật đầu. “Bên cạnh trái.”
“Có phải W17101 không?”
Alex đọc dãy số… W17101… Mắt anh mở rộng.
Bóng ma trao cho anh một ánh mắt trịch thượng.
“Ông có thể nhớ thứ đó mà lại không thể nhớ được tên của chính ông sao?” Alex hỏi.
Bóng ma liếc nhìn đống hộp và đồ vật trên gác mái, những món đồ kỷ niệm bao phủ bởi bụi bặm và năm tháng. “Tôi nhớ tôi từng là một người đã yêu say đắm một ai đó.” Ông bắt đầu dạo bước, bàn tay thọc sâu vào trong túi chiếc áo khoác bay chiến đấu. “Tôi cần tìm hiểu điều gì đã xảy ra. Nếu Emma và tôi đã kết hôn. Nếu…”
“Nếu gì chứ? Ông đã chết rồi đấy nhé.”
“Có lẽ tôi không chết. Có lẽ tôi đã trở về.”
“Từ một chiếc máy bay vỡ vụn à?” Alex hỏi một cách châm biếm. “Từ những gì tôi có thể nói, nó lao xuống địa ngục nhiều hơn là một cuộc hạ cánh gập ghềnh.”
Có vẻ như bóng ma đã quyết định sáng tác vài kiểu kết thúc có hậu cho câu chuyện của ông. “Khi cậu yêu người nào đó nhiều đến thế, cậu sẽ không để cho bất kỳ thứ gì ngăn cản cậu trở về với cô ấy. Cậu sẽ sống sót bất luận thế nào.”
“Có thể tất cả điều đó là bên phía bà ấy. Có thể với ông chỉ là một thử nghiệm.”
“Tôi vẫn còn yêu bà ấy,” Bóng ma nói với vẻ dữ tợn thầm lặng. “Tôi vẫn còn cảm thấy điều đó. Khóa chặt lại ở đây.” Bóng ma đặt một nắm tay trên ngực. “Và nó vô cùng đau đớn.”
Alex tin điều đó. Bởi vì nó đau gần đúng chỗ đó.
Anh quan sát bóng ma tiếp tục dạo bước.
Nếu hình ảnh của bóng ma phản chiếu chính xác những gì ông có trong cuộc sống thực, ông phải có tầm vóc của một phi công, săn chắc và dẻo dai, với sự tập trung những bắp cơ phát triển đủ để chống lại tình trạng hoa mắt từ những buổi thao diễn đến kiệt sức của cuộc không chiến. “Loại độ cao nào được thử nghiệm thịnh hành trong thời của ông vậy?”
“Tôi có thể phù hợp với một chiếc P-40” Bóng ma nói với vẻ xa vắng.
“Ông đã lái một chiếc chiến đấu cơ Warhawk sao?” Alex hỏi, bị mê hoặc. Trong thời niên thiếu, anh đã từng lắp dựng một mô hình chiến đấu cơ thế chiến II hàm cá mập đặc chủng này. “Ông có chắc không?”
“Khá chắc.” Bóng ma lạc trong suy nghĩ. “Tôi nhớ đã bị oanh kích,” Cuối cùng ông nói, “và bị đè ép bởi trọng lực mạnh đến mức máu rời khỏi đầu và mọi thứ trở nên lờ mờ. Nhưng tôi giữ vững cho đến khi cánh quạt tăng cường trên đuôi của tôi hoặc là mất hiệu lực hoặc bị văng đi mất.”
Alex kéo chiệc điện thoại ra khỏi túi quần và khởi động một trình duyệt di động.
“Cậu đang gọi cho ai à?”
“Không ai hết. Tôi đang thử tìm xem liệu có cách nào để xác định danh tính một phi công với dãy số này hay không.”
Sau một hoặc hai phút tìm kiếm, Alex tìm thấy một trang thông tin. Anh cau mày đọc.
“Có gì không?” Bóng ma hỏi.
“Không may rồi. Chẳng có danh sách nào quan trọng hết. Chúng được phát hành với số lượng lớn từ nguồn U.S và Chinese. Một số được tái cấp cho các phi công mới sau khi những người đầu tiên đã chết. Và vì dãy số liên quan đến thông tin chính thức công bố, những danh sách mà họ có chắc chắn đã bị vô hiệu.”
“Tìm Emmaline Stewart xem” Bóng ma nói.
“Không phải trên chiếc điện thoại này. Kết nối của nó quá chậm.” Alex cau có với màn hình LCD rực rỡ nhỏ bé. “Tôi cần một chiếc laptop để làm điều này.”
“Tìm Bellingham Herald đi.” Bóng ma khăng khăng. “Họ phải có thứ gì đó về cô ấy.”
Alex vào website và làm việc trên máy điện thoại khoảng một phút. “Thư mục lưu trữ trực tuyến chỉ có đến năm 2000 thôi.”
“Cậu tìm kiếm dở tệ. Nhờ Sam đi. Cậu ấy có thể tìm ra mọi thứ về Emma trong năm phút.”
“Những người tám mươi tuổi,” Alex nói, “không thường để lại dấu vết trên internet. Và không cách chi tôi có thể yêu cầu Sam được – anh ấy sẽ muốn biết tại sao tôi hứng thú, và tôi thì không muốn giải thích đâu.”
“Nhưng…”
“Ông sẽ gặp Emma đủ sớm khi Zoe mang bà đến đảo. Và nếu tôi là ông, tôi sẽ không kích động đến thế. Bây giờ bà ấy đã là một bà lão rồi.”
Bóng ma khịt mũi. “Cậu nghĩ tôi bao nhiêu tuổi rồi, Alex?”
Alex trao cho ông một ánh nhìn ước định. “Khoảng giữa đến cuối những năm hai mươi.”
“Sau những gì tôi đã trải qua, tuổi tác trở nên khá tương đối. Thân thể chỉ là vật chứa mỏng manh cho một linh hồn.”
“Tôi không được thông suốt đến thế.” Alex thông báo với ông. Sau khi cài điện thoại vào chiếc loa di động, anh đi đến hộp đựng túi rác và kéo ra một cái.
“Cậu đang làm gì vậy?” Bóng ma hỏi.
“Lục lọi mấy thứ này chứ còn làm gì nữa.”
“Máy tính của Sam ở tầng dưới cơ mà,” Bóng ma phản đối, “Cậu có thể hỏi mượn.”
“Để sau đi.”
“Tại sao không phải bây giờ?”
Bởi vì Alex có cảm thấy anh phải có được đôi chút kiểm soát cho cuộc sống chết tiệt của riêng anh. Cuộc chạm trán với Zoe sáng hôm đó, và việc đọc bức thư được đánh máy cũ nát đó, đã đảo lộn anh ghê gớm. Anh cần nghỉ ngơi để thả nổi cảm xúc, quên đi những sự kiện xúc động và những câu hỏi không có lời đáp. Điều duy nhất anh có thể nghĩ đến là làm thứ gì đó thiết thực.
Bóng ma, đọc được biến động trong tâm trạng của anh, đã rút lui và rơi vào im lặng.
Khi những giai điệu do Tony Bennett* sáng tác vang lên, Alex xem xét những chiếc thùng đựng giấy tờ, tạp chí cũ, những chiếc dĩa vỡ, quần áo và đồ chơi cũ. Sàn nhà ngập xác côn trùng và bụi bẩn. Phía sau một chiếc hộp hư nát, Alex tìm thấy một chiếc bẫy chuột cổ xưa với xác một loài gậm nhấm đã khô kiệt. Nhăn mặt, anh dùng một miếng lót bằng nhựa để nhặt lên và ném nó ra xa.
(*Tony Bennett tên thật là Anthony Dominick Bennedetto, nghệ sĩ người Mỹ gốc Ý, nổi tiếng vào thời 1950s với các thể loại pop, truyền thống, Jazz. Ông cũng là một họa sĩ có tài với bút danh Anthony Bennedetto, tranh của ông được trưng bày trong một số học viện. Ông cũng là người thành lập trường nghệ thuật Frank Sinatra ở New York. Bài hát nổi tiếng đầu tiên là Because of you vào năm 1951, tiếp sau đó là các Album : The Beat of My Heart, Basie Swings, Bennett sings…  - Ct của Sẻ , theo Wikipedia.)
Mở một chiếc hộp, Alex tìm thấy một chồng sổ kế toán bọc da và sổ cái. Một đám bụi bốc lên khi anh kéo ra quyển đầu tiên, khiến anh nhảy mũi. Khuỵu gối xuống, anh ngồi trên gót chân, mở nhẹ đùi để giữ thăng bằng. Anh đọc một vài ghi chép mờ nhạt, tất cả các nét chữ được viết bằng mực đen đã nhạt màu.
“Có gì không?” Bóng ma hỏi.
“Tôi nghĩ đó là một quyển sổ kế toán của nhà máy chế biến cá hộp.” Alex lật vài trang khác. “Đây là một bản kiểm kê… máy hấp hơi nước, hệ thống lột da và làm khô, thiết bị hàn, ghép nắp hộp… rất nhiều dầu ô-liu…”
Bóng ma quan sát khi Alex xem lướt qua quyển sách. “Bất kỳ ai làm chủ nhà máy hẳn là có rất nhiều tiền.”
“Trong một thời gian.” Alex nói. “Nhưng vùng này đã cạn kiệt cá trước khi cá hồi biến mất vào lúc đó. Phần lớn ngư dân và nhà máy chế biến đã phá sản trong những năm sáu mươi.” Anh bới sâu và chiếc thùng và lôi ra nhiều sổ hơn. Mở một quyển khác, anh tìm thấy vài bức thư thương mại viết tay, một bức liên quan đến một công ty in thạch bản cung cấp nhãn, và một bức khác về ủy ban vận hành tiểu bang ép buộc nhà máy đồ hộp giảm giá. Anh ngừng lại để nhìn chúng kỹ hơn. “Nhà máy được làm chủ bởi Weston Stewart.”
Bóng ma nhìn anh cảnh giác, nhận ra tên thời con gái của Emma.
Alex tiếp tục xem xét các quyển sổ. Những ghi chép trong vài quyển cuối cùng được đánh máy thay vì viết tay. Một vài trang báo cắt rời với những bức ảnh trắng đen được nhét giữa những trang giấy.
“Những bức hình gì thế?” Bóng ma hỏi, tiến lại gần.
Alex cảm nhận sự háo hức của bóng ma lởn vởn quanh anh, để có được tầm nhìn tốt. “Đừng chen lấn thế chứ. Tôi sẽ nói với ông nếu như có bất kỳ thứ gì ông cần nhìn mà. Đây chỉ là những bản phác họa xây dựng thôi.” Anh cầm lên một bài báo công bố việc đóng cửa nhà máy. “Nơi này đã bị phá sản từ tháng Tám-1960,” Anh nói, xem qua thêm vài bài báo được cắt xén, anh nhìn thấy một bài có tiêu đề “Ngành công nghiệp cá địa phương trên bờ vực sụp đổ.” Và một bài mô tả những tố cáo cục bộ về mùi hôi thối của những đồ phế thải từ nhà máy đồ hộp. “Đây là cáo phó của người chủ nhà máy,” Alex nói. “Weston Stewwart. Ông ấy đã chết chưa đầy một năm sau khi nhà máy đóng cửa. Không nêu lý do là gì. Để lại một góa phụ, Jane, và ba người con gái : Susannah, Loraine và Emmaline.”
“Emmaline,” Bóng ma lập lại, như thể từ ngữ đó là một câu thần chú.
Một bức hình nhỏ của một người phụ nữ trên tiêu đề mảnh báo cuối cùng. Mái tóc vàng dài chấm vai của cô ngay ngắn như những làn sóng được chạm khắc, môi cô được tô hồng bằng son bóng. Cô là loại phụ nữ xinh đẹp vượt hơn cả ngữ nghĩa của từ xinh đẹp. Đôi mắt trong vắt với vẻ hiếu kỳ và sầu muộn, như thể cô đang nhìn vào một tương lai chưa biết đến nhưng chẳng có gì để hy vọng.
“Hãy đến nhìn thứ này đi.” Alex nói.
Bóng ma vội vã xô tới nhìn qua vai anh. Khoảng khắc ông nhìn thấy bức ảnh, ông tạo ra một âm thanh lặng lẽ như thể ông bị đấm vào bụng.
EMMALINE STEWART, JAMES HOFFMAN TỔ CHỨC HÔN LỄ VÀO NGÀY 7 THÁNG CHÍN NĂM 1946
Sau khi từ chức ở vị trí ban tham mưu tại nhật báo Bellingham Heralrd, quý cô Emmaline Stewart đã quay lại đảo San Juan để chuẩn bị cho hôn lễ sắp tới của cô với Trung Úy James Augustus “Gus” Hoffman, người đã phục vụ trong nhiệm vụ phi công của tàu vận chuyển quân dụng trong khu vực trọng yếu China-Burma-India. Trong suốt hai năm chiến tranh vừa qua, Trung úy Hoffman đã bay 52 chuyến công vụ qua lộ trình không phận được hỗ trợ trên dãy Hymalaya. Lời thề nguyền sẽ được cất lên lúc 3:30 tại một ban dịch vụ mở tại First Presbyterian trên dường Spring.
Khi Alex đọc mảnh báo lần thứ hai, anh cảm thấy cảm xúc đông đặc lại quanh anh, nặng nề và ngột ngạt đến mức, càng cố vẫy vùng xuyên qua nó, anh càng chìm xuống sâu hơn và nhanh hơn.
“Ngừng lại đi.” Anh xoay sở nói.
Bóng ma rút lui, gương mặt ông ráo hoảnh và u buồn. “Tôi đang cố đây.” Nhưng ông đã không làm thế, và cả hai đều biết điều đó. Nỗi đau này là cách của ông để được gần gũi Emma, kết nối duy nhất có thể cho đến khi ông được ở bên bà lần nữa.
“Chỉ gây ớn lạnh thôi nhé,” Alẽ nói ngắn gọn “Tôi sẽ không hữu ích nhiều cho ông…” Anh ngừng lại để hổn hển hít sâu một hớp không khí “…nếu ông tặng cho tôi một cơn đột quỵ tắc mạch máu đâu.”
Ánh mắt của bóng ma rơi theo mảnh báo tàn phai đang rơi xuống từ những ngón tay của Alex. Mảnh báo vàng vọt, xoay tròn, giống như chiếc lá, rơi xuống sàn nhà. “Đây là những gì sẽ cảm thấy khi cậu yêu ai đó mà cậu không thể có được.”
Cúi mình giữa những chồng kỷ niệm phong kín, bụi và bóng tối, Alex nghĩ, nếu anh có bao giờ có những cảm giác theo cách đó về một ai đó – điều anh khá nghi ngờ - anh thà nhận một viên đạn vào đầu còn hơn.
“Nó sẽ xảy đến với cậu.” Bóng ma nói, như thể ông đọc được suy nghĩ của Alex. “Ngày nào đó, nó sẽ giáng xuống cậu như một nhát búa. Có vài thứ trong cuộc đời cậu không thể né tránh được.”
Bóng ma buông một tiếng thở thích thú. Với sự nhẹ nhõm của Alex, nỗi khao khát đến đau đớn đã bắt đầu nhạt dần.
“Điều gì xảy ra nếu cậu gặp được người tri kỷ?” Bóng ma hỏi. “Cậu sẽ trốn tránh à?”
“Quỷ thật, phải. Ý tưởng có một linh hồn ở ngoài kia, đang chờ đợi để hợp nhất với của tôi giống như vài chương trình chia sẻ dữ liệu, kéo thẳng tôi xuống địa ngục mất.
“Nó sẽ không như thế. Không giống như việc đánh mất bản thân đâu.”
“Vậy thì là gì?” Alex chỉ lắng nghe một nửa, vẫn chưa hoàn hồn với sự siết chặt như bị cặp bằng chiếc mỏ kẹp ê-tô trên ngực anh.
“Nó giống như toàn bộ cuộc sống của cậu đang rơi thẳng xuống trái đất, cho đến khoảng khắc có ai đó bắt lấy cậu. Và cậu nhận ra, bằng cách nào đó, cậu cũng bắt giữ cô ấy cùng lúc. Và cùng nhau, thay vì rơi xuống, hai người các cậu cùng bay lên.” Bóng ma đi đến bên mảnh báo bị vứt bỏ và nhìn xuống tấm ảnh, nhìn chăm chú. “Cô ấy thật đẹp, đúng không?”
“Chắc chắn rồi.” Alex nói một cách tự động, mặc dù chẳng có chút nào về vẻ quyến rũ rạng rỡ của Zoe trong bức hình, chỉ là đôi chút hao hao.
“Năm mươi hai chuyến bay qua dãy Hymalaya.” Bóng ma nói, đọc mảnh báo thành lời. Ông nhìn Alex. “Họ gọi nó là ‘Hump’ (vùng thử thách). Những phi công vận chuyển lái những chiếc máy bay chất đầy hàng hóa. Thời tiết xấu, độ cao lớn, máy bay địch. Nguy hiểm như địa ngục ấy.”
“Ông là… ông là…” Alex với tay đến mảnh báo trên sàn. “… gã này à? Gus Hoffman?”
Bóng ma cân nhắc những khả năng. “Tôi lái một chiếc P-40. Tôi chắc chắn điều đó. Không phải một chiếc máy bay vận chuyển hàng.”
“Ông là một phi công đương đầu với kẻ thù.” Alex nói. “Khác nhau là gì?”
Bóng ma có vẻ bị xúc phạm. “Khác nhau là gì giữa một chiến đấu cơ và một máy bay vận chuyển ư? Khi cậu ở trong một chiến đấu cơ, cậu chỉ có một mình. Không có chuyện thấp-và-chậm, không café và sandwich, không ai khác để bầu bạn với cậu hết. Cậu bay một mình, cậu đối diện với kẻ thù một mình, và cậu chết một mình.”
Alex thầm thích thú bởi vẻ kiêu hãnh và ngạo mạn len lỏi trong giọng ông. “Vậy cứ cho là ông lái chiếc P-40. Sự việc là, ông là một phi công, ông yêu Emma, và ông nhớ được vài thứ về ngôi nhà mà bà ấy sống, cũng như ngôi nhà gỗ ở hồ Mộng. Tất cả những điều này rơi vào trong khả năng ông là Gus Hoffman.”
“Tôi hẳn đã trở về với bà ấy,” Bóng ma điên cuồng nói. “Tôi hẳn đã cưới bà ấy. Nhưng điều đó có nghĩa là…” Ông bắn cho Alex một ánh mắt sắc lẻm. “Zoe có thể là cháu nội của tôi.”
Alex chà sát vầng trán đang nhức nhối và véo vào khóe mắt bằng ngón tay cái và ngón trỏ. “Ồ, tuyệt.”
“Điều đó có nghĩa là có sự nhường quyền kể từ nay trở đi.”
“Ông đang đẩy tôi theo sau cô ấy đấy chứ.” Alex nói với vẻ tổn thương.
“Đó là trước khi tôi biết về những thứ này. Tôi không muốn cậu trở thành một phần trong nhánh cây gia phả của tôi.”
“Thôi đi, ông bạn. Tôi không định ở gần nhánh cây gia phả của bất kỳ ai hết.”
“Tôi không phải là bạn của cậu. Tôi là… Gus.”
“Về mặt lý thuyết thôi.” Alex trừng mắt nhìn ông khi anh đứng lên và giũ mạnh bụi khỏi quần. Anh đặt những bài báo sang một bên và cột miệng túi rác lại.
“Tôi muốn tìm hiểu xem tôi trông ra sao. Tôi đã chết khi nào, và như thế nào. Tôi muốn nhìn thấy Emma. Và tôi…”
“Tôi muốn một chút thanh bình và yên tĩnh. Không phải chỉ năm phút thôi đâu. Tôi ước ao như quỷ rằng ông có thể tìm ra cách nào đó để biến đi một thời gian.”
“Tôi có thể thử.” Bóng ma thú nhận. “Nhưng tôi sợ nếu tôi làm điều đó, tôi có lẽ sẽ không thể nói chuyện được với cậu lần nữa.”
Alẽ trao cho ông một ánh mắt xem thường.
“Cậu không biết nó như thế nào đâu,” Bóng ma nói. “Cô độc và vô hình với mọi người. Đã đủ tệ khi ngay cả trò chuyện với cậu cũng là một sự khuây khỏa.” Ông có vẻ khinh bỉ với biểu hiện của Alex. “Chẳng có chút gì để cậu chợt nghĩ đến điều đó hết, đúng không? Cậu có bao giờ thử đặt bản thân vào trong hoàn cảnh của một người khác chưa? Có bao giờ bỏ ra một phút để tự hỏi về cảm giác của người khác không?”
“Không. Tôi là một kẻ thần kinh bất ổn mà. Hỏi vợ cũ của tôi xem.”
Một nụ cười dãn ra trên gương mặt của bóng ma. “Cậu không phải là kẻ tâm thần bất ổn. Cậu chính xác là một gã đê tiện.”
“Cám ơn.”
“Thật tốt là cậu đã ly hôn.” Bóng ma nói. “Darcy không phải là người phụ nữ phù hợp với cậu.”
“Tôi biết điều đó ngay lần đầu tiên tôi gặp cô ấy. Đó chính xác là lý do tôi cưới cô ấy.”
Cân nhắc điều đó, bóng ma lắc đầu trong vẻ chán ghét và nhìn đi chỗ khác. “Đừng bận tâm. Cậu đúng là một gã thần kinh.”

Không có nhận xét nào: