Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2013

Chương 1 - DreamLake

Chương 1


Nhiều lần, bóng ma đã thử rời khỏi ngôi nhà, nhưng không thể được. Bất cứ khi nào ông tiến đến ngưỡng cửa trước nhà hay ngả người qua khung cửa sổ, ông bị biến mất, toàn thân ông tan tác như đám bụi trong không khí. Ông lo lắng rằng, ngày nào đó, ông sẽ không thể có được hình thể trở lại. Ông tự hỏi không biết liệu việc bị mắc kẹt ở đây có phải là sự trừng phạt cho một quá khứ mà ông không thể nhớ hay không… và nếu thế, nó sẽ kéo dài bao lâu?

Ngôi nhà kiểu Victorian nằm ở cuối đường Rainshadow, nhìn xuống bờ biển hình cánh cung của vịnh False, giống như một đóa hoa bên lề chờ đợi trong cô đơn một lời mời khiêu vũ. Vách nhà bằng ván sơn màu đã bị bào mòn trong khí hậu vùng biển, nội thất bị tàn phá bởi một chuỗi các người thuê nhà cẩu thả. Sàn nhà bằng gỗ cứng nguyên thủy được phủ bằng thảm dày, những căn phòng ngăn cách nhau qua các bức tường bằng ván dăm mỏng, đồ gỗ trang trí thì chồng chất bởi hàng tá những lớp sơn rẻ tiền.
Từ cửa sổ, bóng ma quan sát những cánh chim sống ven bờ : những con chim mỏ nhác, chim choắt chân vàng, chim choi choi, chim whimbrel (giống chim mỏ nhác nhưng bé hơn- Ct của Sẻ) đang bới tìm thức ăn phong phú ở những vũng lầy do thủy triều, trong ánh nắng màu vàng hanh của buổi sáng. Vào ban đêm, ông ngắm nhìn những vì sao, những ngôi sao chổi và vầng trăng mù sương, thỉnh thoảng, ông thấy những ánh sáng vùng cực Bắc nhảy nhót ngang qua đường chân trời.
Bóng ma không biết chắc ông đã ở trong ngôi nhà bao lâu rồi. Không một nhịp tim đập để đo từng giây trôi qua, thời gian là vô tận. Một hôm, ông đã tìm thấy chính mình ở đó, không tên tuổi, không hình hài thể chất, và cũng không biết chắc mình là ai. Ông không biết ông đã chết như thế nào, hay ở đâu, và tại sao. Nhưng một vài ký ức thấp thoáng bên rìa nhận thức của ông. Ông cảm thấy, chắc chắn ông đã sống ở đảo San Juan trong một phần đời. Ông nghĩ, có lẽ ông là người cho thuê thuyền, hoặc một ngư dân. Khi ông nhìn ra ngoài vịnh False, ông nhớ lại những thứ có liên quan đến nước và xa hơn… những kênh đào giữa các hòn đảo San Juan, eo biển hẹp uốn quanh Vancouver. Ông biết hình thù giống như bị vỡ tung của cửa sông Puget Sound, cách mà những lạch nhỏ hình răng rồng của nó cắt ngang qua rặng núi Olympia.
Bóng ma cũng biết nhiều bài hát, tất cả vần điệu và lời nhạc, thậm chí cả những khúc dạo đầu. Khi sự thinh lặng vượt quá sức chịu đựng, ông hát cho chính mình khi ông di chuyển qua những căn phòng trống rỗng.
Ông khao khát được tiếp xúc với bất kỳ loại sinh vật sống nào. Ông không quan tâm dù cho đó là những con côn trùng chạy lon ton qua sàn nhà. Ông tha thiết được biết điều gì đó về bất kỳ ai khác, để nhớ lại người ông đã từng biết trước kia. Nhưng những ký ức đó đã bị khóa chặt cho đến cái ngày kỳ diệu, khi số mệnh của ông rốt cuộc cũng tiết lộ.
Một buổi sáng, những người khách đến thăm ngôi nhà.
Giật nảy người, bóng ma quan sát chiếc xe hơi tiến đến gần. Những chiếc vỏ xe ủi phẳng đám cỏ dại um tùm phát triển dọc theo lối vào lát đá. Chiếc xe ngừng lại và hai người xuất hiện, một người đàn ông trẻ với mái tóc sẫm màu, và một phụ nữ luống tuổi mặc quần jeans và mang giày đế bằng cùng chiếc áo khoác màu hồng.
“…không thể tin là nó đã được để lại cho tôi,” bà đang nói, “em họ của tôi đã mua lại nó vào những năm bảy mươi với ý định sửa chữa và bán, nhưng cậu ấy không bao giờ đi vòng quanh nó. Giá trị của điền sản này nằm trong đất đai – cậu phải dỡ bỏ ngôi nhà xuống thôi, chẳng có gì thắc mắc.”
“Bà đã lượng giá chưa?” Người đàn ông hỏi.
“Về lô đất ư?”
“Không, về việc khôi phục ngôi nhà.”
“Chúa ơi, không. Những kết cấu đã bị hư hại – mọi thứ sẽ phải làm lại.”
Anh ta nhìn chằm chằm ngôi nhà như bị thôi miên. “Tôi muốn nhìn bên trong.”
Cái cau mày hằn nếp nhăn trên trán người phụ nữ, giống như cánh lá rau diếp. “Ôi, Sam, tôi chắc chắn là nó không an toàn.”
“Tôi sẽ cẩn thận.”
“Tôi không chịu trách nhiệm nếu cậu bị thương đâu. Cậu có thể bị ngã lọt xuyên qua sàn nhà, hoặc một thanh xà rầm rớt trúng cậu. Và chẳng thể nói được loại sâu mọt nào…”
“Sẽ không có điều gì xảy ra đâu.” Giọng anh thuyết phục. “Cho tôi năm phút. Tôi chỉ muốn nhìn thoáng qua thôi.”
“Tôi thực sự không nên để cậu làm điều này.”
Sam lóe lên với bà một nụ cười quyến rũ phản trắc. “Nhưng bà sẽ. Vì bà không thể cưỡng lại tôi.”
Bà cố ra vẻ nghiêm nghị, nhưng một nụ cười miễn cưỡng lộ ra.
Mình thường giống như thế,   bóng ma nghĩ với vẻ ngạc nhiên. Những ký ức khó nhớ bập bùng, với những tán tỉnh trong quá khứ và những buổi tối cách đây đã lâu trải qua trên hiên trước nhà. Ông biết cách để mê hoặc phụ nữ, trẻ cũng như già, cách khiến họ cười. Ông đã hôn những cô gái với hương trà ngọt ngào trong hơi thở, cổ và vai của họ được rắc phấn thơm.
Người đàn ông lực lưỡng nhảy lên hiên trước và xô vai vào cửa khi nó bị mắc kẹt. Khi anh bước vào bên trong sảnh đón, anh trở nên cảnh giác, như thể anh mong đợi thứ gì đó nhảy xổ vào anh. Mỗi bước đi khuấy động lớp bụi, tung đám tàn tro là đà như lông chim khỏi sàn nhà và làm cho anh hắt hơi.
Đúng là âm thanh của con người. Bóng ma đã quên mất tiếng hắt hơi.
Ánh mắt Sam di chuyển qua bức tường đổ nát. Đôi mắt anh xanh biếc ngay cả trong bóng tối, những chuyển động của nụ cười hằn lên bên góc mắt. Anh không đẹp trai, nhưng anh có vẻ ưa nhìn, dáng người anh mạnh mẽ và góc cạnh. Anh đã ở ngoài trời nhiều, sự rám nắng in sâu nhiều lớp trên da anh. Nhìn anh, gần như bóng ma có thể nhớ lại được cảm giác của ánh nắng, tác dụng nhẹ nhàng nóng bỏng của nó trên da ông.
Người phụ nữ rón rén đến ngưỡng cửa, mái tóc của bà ôm vòng quanh đầu như một vầng hào quang ánh bạc khi bà nhìn vào bên trong lối vào. Bà túm chặt một cạnh của khung cửa như thể đó là một cây cột chống trên chuyến tàu tròng trành. “Ở đây quá tối. Tôi thật sự không nghĩ…”
“Tôi sẽ cần nhiều hơn năm phút.” Sam nói, kéo một chiếc đèn pin nhỏ khỏi chùm chìa khóa của anh, và bật lên. Có lẽ bà muốn ra ngoài uống chút café và trở lại trong, xem nào… nửa giờ nhé?”
“Và để cậu ở lại đây một mình ư?”
“Tôi sẽ không gây ra bất kỳ thiệt hại nào đâu.”
Người phụ nữ khịt mũi. “Tôi không lo lắng về ngôi nhà, Sam à.”
“Tôi có điện thoại di động mà.” Anh nói, vỗ nhẹ vào túi sau, “Tôi sẽ gọi nếu như có rắc rối.” Những vết hằn cười cợt trên góc mắt anh lún sâu thêm. “Bà có thể đến để giải cứu tôi.”
Bà buông ra một tiếng thở dài đầy kịch tính. “Chính xác cậu nghĩ cậu đang tìm kiếm điều gì ở đống phế tích này thế?”
Ánh mắt anh rời khỏi bà, sự chú ý của anh lại bị chiếm giữ bởi những thứ xung quanh. “Một tổ ấm. Có lẽ thế.”
“Nơi này đã từng là một tổ ấm,” Bà nói. “Nhưng tôi không thể hình dung nó lại như thế một lần nữa.
Bóng ma thấy nhẹ nhõm khi người phụ nữ rời đi.
Hướng ngọn đèn chậm rãi theo hình vòng cung, Sam bắt đầu thăm dò đầy sốt sắng, trong lúc bóng ma theo sau anh từ phòng này qua phòng khác. Bụi nằm trên mặt lò sưởi và bao phủ đồ nội thất như một màn sương mỏng.
Nhìn thấy một chỗ rách trên tấm thảm dày, Sam hạ thấp người xuống trên gót chân, kéo tấm thảm, anh chiếu ánh đèn vào lớp sàn gỗ cứng bên dưới. “Gỗ gụ?” Anh thì thầm, xem xét bề mặt sẫm màu trét đầy keo vữa. “Gỗ sồi?”
Hồ đào đen, bóng ma nghĩ, nhìn qua vai anh. Một phát hiện khác nữa… ông biết về sàn nhà, cách đánh bóng bằng giấy nhám, bào bằng tay và làm sạch vết đinh, cách bôi thuốc nhuộm màu với miếng xốp lông cừu.
Họ đi vào bếp, với hốc thụt của nó được thiết kế một lò nấu bằng gang, một vài mảnh đá lát bị vỡ vẫn còn bám trên những bức tường. Sam hướng chùm đèn vào khung trần cao, những tủ bếp treo xộc xệch. Anh tập trung vào một tổ chim bỏ hoang, để ánh mắt rơi theo tiếng lộp độp lâu năm đang nhỏ giọt xuống bên dưới, và lắc đầu. “Mình điên rồi.” Anh lầm bầm.
Sam rời khỏi bếp và đi lên cầu thang, dừng lại để cà ngón tay cái qua chấn song lan can. Một vệt để lại trên gỗ, sáng lên khỏe khoắn xuyên qua lớp bụi bẩn. Đặt chân cẩn thận tránh những lỗ thủng mục nát trên những bậc thang, anh đi lên tầng hai. Tại chiếu nghỉ cầu thang, anh nhăn mặt và buông một tiếng thở phù như thể có mùi độc hại nào đó. “Bà ấy nói đúng,” Anh nói một cách rầu rĩ, khi anh bước đến sàn tầng hai. “Nơi này chẳng thể làm gì ngoại trừ tháo bỏ.”
Điều đó gởi đến một cú giật lo lắng xuyên qua bóng ma. Điều gì sẽ xảy đến với ông, nếu ai đó san bằng ngôi nhà đến tận mặt đất? Nó hẳn sẽ phá hủy ông hoàn toàn. Bóng ma không thể hiểu nổi việc ông bị bẫy cô độc tại đây lại được kết thúc chẳng vì lý do rõ ràng nào như thế. Ông đảo vòng quanh Sam, nghiên cứu anh, muốn một sự giao tiếp nhưng e ngại sẽ khiến người đàn ông thét lên ngay tại chỗ.
Sam đi xuyên thẳng qua ông và ngừng lại tại cửa sổ trông ra con đường trước nhà. Bụi bẩn lâu ngày che phủ mặt kính, làm nhạt đi ánh sáng ban ngày trong vẻ ảm đạm. Một tiếng thở dài thoát ra khỏi anh. “Mày đã đợi rất lâu rồi, đúng không?” Sam hỏi lặng lẽ.
Câu hỏi làm bóng ma giật mình. Nhưng khi Sam tiếp tục, bóng ma nhận ra anh đang nói chuyện với ngôi nhà. “Tao cá là mày đáng để được chiêm ngưỡng cách đây hàng trăm năm. Thật là ô nhục nếu không cho mày một cơ hội. Nhưng chết tiệt, mày sẽ tiêu tốn bộn tiền. Và điều đó sẽ lấy đi mọi thứ tao dành cho vườn nho. Quỷ thật, tao không biết…”
Khi bóng ma đi cùng Sam qua những căn phòng đầy bụi, ông cảm nhận rằng chàng trai đã gia tăng sự quyến luyến đối với căn nhà đổ nát, anh khao khát làm cho nó trở nên xinh đẹp trở lại. Chỉ có kẻ mơ mộng hão huyền hoặc là một gã ngốc mới muốn thực hiện một dự án như thế, Sam suy nghĩ thành lời. Bóng ma đồng ý với anh.
Cuối cùng, Sam nghe thấy tiếng còi xe của người phụ nữ, và anh đi ra bên ngoài. Bóng ma cố đi cùng anh, nhưng ông cảm thấy sự choáng váng, sự vỡ vụn, ý thức bị chia tách tương tự như đã luôn xảy ra mỗi khi ông cố rời khỏi nhà. Ông đi đến ô cửa sổ vỡ để quan sát, khi Sam mở cửa phía hành khách của chiếc xe hơi.
Ngừng lại để quay nhìn lần cuối, Sam ngắm nghía ngôi nhà đổ bóng trên bãi cỏ, những đường nét ọp ẹp của nó dịu đi bởi những đường cắt của cỏ mũi tên (arrowgrass), những khóm hoa đuôi chồn (pickleweed), và đám tơ rối của cỏ chairmaker’s rush (xem hình bên dưới – Sẻ). Màu xanh phẳng lặng của vịnh False lùi ra xa, ánh lấp loáng của những vũng lầy do thủy triều rút đang bắt đầu tại những đường rìa phù sa màu mỡ.
Sam gật đầu nhẹ như thể anh đã quyết định.
Và bóng ma lại có thêm một phát hiện khác… Ông có khả năng hy vọng.
***

Trước khi Sam thương lượng giá cho khu điền sản, anh đưa một người đến để xem xét nó – một người đàn ông trạc tuổi anh, ba mươi hay xấp xỉ như thế. Có lẽ trẻ hơn một chút. Ánh mắt anh ta lạnh lẽo với nỗi yếm thế hẳn đã phải mất cả đời để đạt được.
Họ phải là hai anh em – Họ có cùng mái tóc màu nâu sẫm dày và khuôn miệng rộng, cùng kiểu thân hình vạm vỡ. Nhưng, trong khi mắt Sam có màu xanh da trời vùng nhiệt đới, em trai anh lại có màu sắc của băng đá. Gương mặt anh vô cảm, ngoại trừ vẻ cay đắng đọng trên miệng anh, ẩn sâu bên dưới dấu ngoặc đơn như chạm khắc hai bên khóe môi. Và tương phản với vẻ ưa nhìn như được phác thảo của Sam, người kia sở hữu một vẻ đẹp gần như hào phóng. Thân hình anh mảnh dẻ và hoàn hảo. Đây là một người đàn ông thích ăn mặc đẹp và sống tốt, người chi trả cho những thợ cắt tóc mắc tiền và những đôi giày ngoại nhập.
Có một điểm phi lý trong tất cả những thứ tề chỉnh không chê vào đâu được, đó là sự kiện đôi tay người đàn ông thô nhám vì làm việc và mạnh mẽ. Bóng ma đã nhìn thấy đôi tay như vậy trước đây… có lẽ là của chính ông chăng?... Ông nhìn xuống bản thể vô hình của mình, ao ước có được một hình thể, một dáng vóc. Một giọng nói. Tại sao ông ở đây với hai người đàn ông này, chỉ có thể quan sát, không bao giờ nói chuyện hoặc tương tác? Ông có nhiệm vụ phải biết được điều gì đây?
Trong chưa đầy mười phút, ông hiểu được rằng, Alex, như Sam đã gọi anh ta, hiểu biết rành rẽ về xây dựng. Anh bắt đầu đi vòng quanh bên ngoài ngôi nhà, lưu ý những khe nứt trên nền nhà, những kẽ hở trong đồ gỗ trang trí, chiếc hiên trước lún xuống với những xà rầm và thanh giằng suy tàn của nó. Ngay khi vào bên trong, Alex đi chính xác đến những nơi mà bóng ma sẽ chỉ cho anh để chứng minh tình trạng của ngôi nhà – những vùng không bằng phẳng của sàn nhà, những ô cửa không đóng lại được, những đốm mốc ở những nơi hệ thống ống nước bị rò rỉ.
“Người kiểm tra nói những kết cấu hư hại có thể sửa chữa lại được.” Sam bình luận.
“Anh có ai để làm điều đó thế?” Alex hạ thấp hông xuống để xem xét lò sưởi phòng khách đã đổ sụp, chỗ gãy đã để lộ ống khói.
“Ben Rawley.” Sam có vẻ phòng thủ khi anh thấy biểu hiện của Alex. “Ồ, anh biết ông ấy có hơi già một chút…”
“Ông ấy cổ lỗ sĩ thì có.”
“…nhưng tuy vậy, ông ấy hiểu biết về công việc của mình, và ông ấy làm điều đó miễn phí, như một ân huệ.”
“Em sẽ không nghe lời ông ấy. Anh cần để cho một kỹ sư đánh giá.” Alex có một cách nói chuyện đặc biệt, mọi âm tiết đều đặn và tẻ nhạt như băng ghi âm của người thầu khoán bị sổ tung, với dấu vết của một tiếng rít. “Thứ duy nhất thêm vào trong toàn cảnh, đó là: đi cùng ngôi nhà có kết cấu bị hủy hoại trên điền sản, nó sẽ ít đáng giá hơn một khu đất trống. Vì vậy anh phải tranh luận để giảm giá, xét đến phí tổn trong việc tháo dỡ và dọn dẹp.”
Bóng ma giật mạnh với nỗi lo lắng. Việc phá hủy ngôi nhà hẳn sẽ là kết thúc của ông. Điều đó sẽ mang ông vào sự lãng quên.
“Anh sẽ không phá sập nó xuống đâu,” Sam nói. “Anh sẽ cứu nó.”
“Chúc may mắn.”
“Anh biết.” Sam vò đầu, khiến cho đám tóc ngắn sẫm màu dựng đứng lên trong vẻ rối bời hoang dã. Anh buông một tiếng thở dài nặng nề. “Vùng đất tuyệt hảo cho một vườn nho – anh biết anh nên dừng lại ở đó và hài lòng với may mắn của mình. Nhưng ngôi nhà này… Có thứ gì đó anh vừa…” Anh lắc đầu, có vẻ bối rối, buồn phiền, và bất thình lình trở nên kiên quyết.
Cả bóng ma và Sam chờ đợi Alex chế diễu anh. Thay vì thế, Alex đứng lên và đi vẩn vơ ngang qua phòng khách, đến ô cửa sổ bị bít kín bằng ván. Anh kéo tấm ván cũ kỹ. Nó bung ra một cách dễ dàng, chỉ đưa ra một tiếng cọt kẹt phản kháng. Ánh sáng tuôn chảy vào phòng cùng với luồng không khí trong lành, một cơn lốc bụi cao đến đầu gối, lấp lánh trong vùng nắng mới.
“Em cũng có một thứ về sự chắc chắn thất bại,” Một nét uể oải, chế diễu mài sắc giọng của Alex. “Không đề cập đến ngôi nhà Victorian đâu nhé.”
“Thật chứ?”
“Dĩ nhiên. Bảo dưỡng cao, thiết kế không tiết kiệm năng lượng, những vật liệu có độc tính… Cái nào không được ưa thích đây?”
Sam cười. “Vậy nếu em là anh, em sẽ khởi đầu công việc này thế nào?”
“Em sẽ chạy nhanh nhất có thể theo hướng ngược lại. Nhưng vì rõ ràng anh sẽ mua nơi này… đừng lãng phí thời gian của anh với một kẻ cho vay tu sửa. Anh sẽ cần một gã lắm tiền nhiều của, và lãi suất sẽ bòn rút anh đến tận xương.”
“Em có biết ai không?”
“Em có. Tuy vậy, trước khi chúng ta bắt đầu nói về điều đó, anh cần đối mặt với sự thật. Anh cần ít nhất hai trăm năm mươi ngàn cho việc tu sửa, và đừng mong đợi dựa vào em về những cung cấp và nhân công miễn phí – Em đang chuẩn bị dự án hồ Mộng, vì vậy, em sẽ bận rộn như chú mèo mê mải dấu phân của mình.”
“Tin anh đi, Al, anh không bao giờ mong đợi dựa vào em về bất cứ thứ gì.” Giọng Sam trở nên khô khan. “Anh biết tốt hơn mà.”
Sự căng thẳng đan xoắn trong không khí, một sự pha trộn giữa yêu mến và thù địch chỉ có thể đến từ một lịch sử gia đình phức tạp. Bóng ma thấy bối rối với cảm nhận thiếu thân thiện, một sự ớn lạnh chân thực có thể gây cho ông một cơn rùng mình, nếu như ông có một hình thể của con người. Đó là sự thất vọng sâu sắc mà, ngay cả với bóng ma, trong sự cô tịch ảm đạm của ông, cũng chưa từng trải qua. – và nó tỏa ra từ Alex Nolan.
Bóng ma lách người ra xa một cách bản năng, nhưng không thể trốn tránh được cảm giác ấy. “Điều đó được cảm nhận như thế nào đối với cậu vậy?” Ông hỏi, thấy thương xót chàng trai. Ông giật mình khi thấy Alex thả một cái liếc qua vai anh về hướng của ông. “Cậu có thể nghe được tôi sao?” Bóng ma tiếp tục trong sự thắc mắc, đảo tròn xung quanh anh. “Cậu vừa nghe thấy giọng của tôi à?”
Alex không đáp, chỉ lắc đầu nhẹ như thể xóa đi một giấc mơ ban ngày. “Em sẽ gởi một kỹ sư đến đây,” Cuối cùng anh nói. “Không tính tiền. Anh sẽ tiêu pha đủ nhiều cho nơi này. Em không nghĩ anh có chút manh mối nào về việc anh sắp trải qua.”

***

Gần hai năm trôi qua trước khi bóng ma thấy Alex Nolan lần nữa. Suốt thời gian đó, Sam trở thành một thấu kính mà qua đó, bóng ma có thể nhìn ra thế giới bên ngoài. Dù ông vẫn không thể rời khỏi ngôi nhà, có những khách đến thăm : bạn bè của Sam, những người thợ chăm sóc vườn nho của anh, những nhà thầu phụ làm việc với hệ thống điện và ống nước.
Anh trai lớn của Sam, Mark, đã xuất hiện khoảng một tháng trước để phụ giúp với những dự án cuối tuần nhỏ hơn. Vào một ngày, họ phá sập một vùng sàn nhà, và hôm khác, họ đánh bóng bằng giấy nhám và lắp lại kính cho một bồn tắm chân quỳ kiểu cổ. Toàn bộ thời gian, họ nói chuyện và trao đổi những lời lăng mạ đôn hậu. Bóng ma cực kỳ thích những cuộc thăm viếng đó.
Càng ngày càng nhiều, ông nhớ lại những thứ về cuộc đời trước kia của mình, thu thập những ký ức giống như những hạt cườm bị tung rải khỏi sàn nhà. Ông đã nhớ ra rằng ông thích nhạc Jazz và những quyển sách hài hước về anh hùng và máy bay. Ông thích nghe những buổi biểu diễn trên sóng phát thanh : Jack Benny *, George và Gracie*, Edgar Bergen*. Ông vẫn chưa khám phá đủ về quá khứ của mình để có một cái nhìn tổng thể. Nhưng ông nghĩ, vào lúc nào đó ông sẽ có. Giống như những vệt sơn, chỉ là những điểm màu khi nhìn từ một khoảng cách, sẽ hình thành một hình ảnh hoàn thiện.
(Jack Benny : Diễn viên hài, nghệ sĩ vĩ cầm của Mỹ, nổi tiếng vào những năm 30s-60s
George & Gracie : Một đôi diễn viên hài người Mỹ, Goergr Burns và vợ Gracie Allen, nổi tiếng từ những năm 20s kéo dài hơn 4 thập kỷ.
Edgar Bergen : Diễn viên tạp kỷ người Mỹ gốc Thụy Điển nổi tiếng với tài nói bằng bụng, hoạt động vào những năm 1030-1970.  Ct của Sẻ.)

Mark Nolan dễ chịu và đáng tin, kiểu đàn ông mà bóng ma sẽ thích kết bạn. Vì anh làm chủ một doanh nghiệp chế biến café, Mark luôn mang đến những túi hạt nguyên chất và bắt đầu với mỗi cuộc thăm viếng bằng những chầu café – anh uống nó từ một bình to. Khi Mark tỉ mỉ nghiền hạt và phân chia chúng, bóng ma nhớ lại hương vị café, vị ngọt đắng, hương thơm trần tục của nó, cách mà một muỗng đường và một mảng kem mỏng biến nó thành một chất lỏng mịn như nhung.
Bóng ma lượm lặt từ những cuộc chuyện trò của anh em nhà Nolan rằng, cả hai cha mẹ của họ đều là những kẻ nghiện rượu. Những vết sẹo mà họ để lại cho con cái của họ - ba con trai và một con gái tên là Victoria – vô hình, nhưng sâu đến tận xương. Bây giờ, mặc dù cha mẹ họ đã mất, anh em nhà Nolan rất ít liên lạc với nhau. Họ là những kẻ sống sót của một gia đình không ai muốn nhớ.
Thật mỉa mai rằng, Alex, với sự dè dặt đã qua thử thách của anh, là người duy nhất trong bốn anh em trong chừng mực nào đó đã kết hôn. Anh và vợ anh, Darcy, sống gần Roche Harbor. Người em gái duy nhất, Victoria, là một người mẹ đơn thân, sống ở Seatle cùng con gái nhỏ của cô. Về phần Sam và Mark, họ quyết định giữ nguyên tình trạng độc thân. Sam đã dứt khoát với quan điểm rằng, không người phụ nữ nào xứng đáng với những rủi ro của hôn nhân. Bất cứ khi nào anh cảm thấy một mối quan hệ trở nên quá gần gũi, anh chấm dứt nó ngay, và không bao giờ nhìn lại.
Sau khi Sam tâm sự với Mark về sự chia tay gần nhất, với một phụ nữ muốn nâng mối quan hệ của họ lên mức độ kế tiếp, Mark hỏi. “Mức độ kế tiếp là gì?”
“Em không biết. Em đã chia tay với cô ấy trước khi em tìm ra.”
Cả hai đang ngồi trên hiên trước, miết những miếng giẻ lau sơn trên một hàng lan can cũ sẽ được tận dụng làm lan can hiên trước. “Em là anh-chàng-một-mức-độ mà.” Sam tiếp tục, “Tình dục, những bữa tối bên ngoài, những món quà bâng quơ không thường xuyên, và không nói về tương lai, chưa từng nhé. Lúc này thật nhẹ nhõm vì nó chưa bao giờ. Cô ấy rất tuyệt, nhưng em không thể xoay sở với toàn bộ món salad cảm xúc.”
“Món salad cảm xúc là cái gì thế?” Mark hỏi, thích thú.
“Em biết phụ nữ thường làm những thứ đó. Thứ thập cẩm của vui sướng và than khóc. Hoặc buồn rầu và kích động. Em không hiểu làm thế nào mà một ai đó có thể có nhiều hơn một cảm xúc trong cùng một lúc được. Điều đó giống như việc cố xem ti vi trên nhiều kênh khác nhau vào cùng một thời điểm vậy.”
“Anh đã thấy em có nhiều hơn một cảm xúc trong cùng một thời điểm đấy thôi.”
“Khi nào thế?”
“Ở lễ cưới của Alex. Khi chú ấy và Darcy trao đổi lời thề hứa. Em đang cười, nhưng mắt em sũng nước.”
“Ồ, đó là lúc em đang nghĩ về một cảnh trong phim “One flew over the cukoo’s nest” (Bay qua tổ chim cúc cu)*, khi Jack Nichoson phải phẫu thuật thùy não và bạn ông làm ông chết ngạt với một chiếc gối của lòng nhân từ.”
·         Bay qua tổ chim cúc cu (One Flew Over the Cuckoo's Nest) là một bộ phim nổi tiếng của đạo diễn Miloš Forman được sản xuất năm 1975 dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Ken Kesey. Bộ phim là câu chuyện về cuộc đấu tranh giữa khao khát tự do và nỗi sợ hãi của các bệnh nhân tại một trại điều dưỡng tâm thần. Đây là bộ phim thứ hai sau It Happened One Night (1934) giành được cả 5 giải Oscar chính (Big Five, gồm Phim, Đạo diễn, Kịch bản, Vai nam chínhVai nữ chính). Ct của Sẻ - theo Wikipedia.

“Phần lớn thời gian, anh không thấy phiền với việc làm chết ngạt Alex bằng một chiếc gối.” Mark nói.
Sam cười toe toét, nhưng nhanh chóng nghiêm lại khi anh tiếp tục. “Ai đó nên kéo chú ấy thoát khỏi nỗi bất hạnh. Darcy là một người khác thường. Có nhớ bữa tối diễn tập trước đám cưới, khi cô ấy ám chỉ Alex như là người chồng đầu tiên của cô ấy không?”
“Thì chú ấy là người chồng đầu tiên của cô ấy mà.”
“Phải, nhưng việc gọi chú ấy là “đầu tiên” ngụ ý sẽ có cái thứ hai. Những người chồng giống như những chiếc xe hơi đối với Darcy – Cô ấy chỉ sử dụng mà thôi. Và những gì em không hiểu nổi là Alex biết điều đó, nhưng dù thế nào, chú ấy vẫn tiến lên và cưới cô ấy. Ý em là, nếu như anh phải kết hôn, ít ra thì cũng nên chọn ai đó tử tế.”
“Cô ấy không tệ đến thế.”
“Vậy tại sao mỗi khi em nói chuyện với cô ấy, em lại có cảm giác rằng, tốt hơn em nên  quan sát những phán đoán của cô ấy từ một tấm chắn phản chiếu?”
“Cô ấy không phải kiểu ưa thích của anh,” Mark nói, “nhưng nhiều anh chàng sẽ nói cô ấy nóng bỏng.”
“Không phải lý do tốt để cưới một ai đó.”
“Theo quan điểm của em, Sam à, có bất kỳ lý do tốt nào để kết hôn không vậy?”
Sam lắc đầu. “Em thà bị tai nạn thương đau với một công cụ điện còn hơn.”
“Đã thấy cách chú mày xoay sở với một cái cưa phức hợp rồi,” Mark nói, “Anh có thể nói, điều đó hoàn toàn có thể xảy ra.”

***

Vài ngày sau, Alex bất ngờ ghé thăm ngôi nhà trên đường Rainshadow. Kể từ lần cuối cùng bóng ma gặp anh, Alex đã gầy đi nhiều. Xương gò má của anh nhô cao như những chấn song nhà tù, đôi mắt băng giá của anh đóng khung sâu bên dưới lớp quầng thâm.
“Darcy muốn ly thân,” Alex nói mà không mào đầu, khi Sam chào đón anh vào nhà.
Sam bắn cho anh một cái nhìn quan tâm. “Tại sao?”
“Em không biết.”
“Cô ấy không nói với em sao?”
“Em không hỏi.”
Sam tròn mắt, “Jesus, Al, em không muốn biết tại sao vợ em muốn lìa bỏ em à?”
“Không nhiều.”
Giọng Sam trở nên khô khan một cách ôn hòa. “Em có nghĩ đó là một phần của vấn đề không? Như là, có thể cô ấy cần một người chồng quan tâm đến những cảm giác của cô ấy chẳng hạn.”
“Một trong những lý do em thích Darcy ngay lúc đầu, đó là cô ấy và em không bao giờ trò chuyện về vấn đề đó.” Alex đi vơ vẩn vào phòng khách, đôi tay thọc sâu vào túi quần. Anh quan sát khung cửa mà Sam đang cố đặt vào đúng chỗ. “Anh sắp làm nứt gỗ ra đấy. Anh cần phải khoan những cái lỗ mồi trước.”
Sam nhìn anh một lúc. “Muốn giúp một tay không?”
“Chắc rồi.” Alex đi đến bàn làm việc đặt ở giữa phòng và cầm lên một chiếc khoan điện không dây. Anh kiểm tra sự lắp đặt và độ chắc chắn của mâm cặp, và nhấn cò để thử. Một tiếng rít chói lói xuyên qua không khí.
“Giá đỡ bị khô dầu.” Sam nói với vẻ tạ lỗi. “Anh đã định châm dầu nhưng anh không có thời gian.”
“Tốt hơn nên thay thế chúng triệt để. Em sẽ quan tâm đến nó sau. Trong khi chờ đợi, em có một chiếc khoan tốt trong xe. Động cơ bốn thì, bốn trăm năm mươi vòng xoắn.
“Tuyệt.”
Theo cách của cánh đàn ông, họ xử lý vấn đề hôn nhân tan vỡ của Alex bằng cách không nói về nó, thay vì thế, họ làm việc cùng nhau trong mối im lặng thân hữu. Alex lắp đặt khung cửa với độ chính xác và tỉ mỉ, đo đạc và đánh dấu, bào bằng tay một lớp mỏng của bức tường trát vữa để bảo đảm khuôn cửa thẳng đứng một cách tuyệt hảo.
Bóng ma yêu thích kỹ năng thợ mộc, cách nó tạo nên ý nghĩa cho mọi thứ. Các cạnh gần như đã liên kết và hoàn tất, những chỗ không hoàn chỉnh được đánh bóng bằng giấy nhám và sơn phủ, mọi thứ đồng đều. Ông quan sát công việc của Alex một cách đồng tình. Mặc dù Sam làm việc của anh tốt ngang một kẻ nghiệp dư, có thừa thãi những thiếu sót và những thứ vượt quá lên. Alex biết rõ những gì anh đang làm, và điều đó được tỏ rõ.
“Tuyệt đến chết tiệt” Sam nói với vẻ ngưỡng mộ khi anh thấy cách Alex cắt bằng tay những chân cột được sử dụng như bệ đỡ trang trí cho khung cửa. “Em sẽ phải làm khung cửa khác ở đây. Bởi vì không có cách quái quỷ nào anh có thể làm được giống như thế.”
“Không thành vấn đề.”
Sam đi ra bên ngoài để bàn bạc với những thợ làm vườn nho của anh, những người đang bận rộn với công việc cắt tỉa và tạo dáng cho những cành nho non để chuẩn bị đạt đến sự tăng trưởng nổ bùng vào tháng Tư. Alex tiếp tục làm việc trong phòng khách. Bóng ma đi vẩn vơ quanh phòng, hát khẽ trong những thời gian tạm lắng giữa những tiếng búa và tiếng cưa.
Khi Alex làm đầy những lỗ đinh với bột đánh bóng và chất trám dùng cho gỗ xung quanh các cạnh của khung cửa, anh bắt đầu ngâm nga êm ái, gần như không nghe thấy. Dần dần, một giai điệu xuất hiện, và sự nhận biết đánh vào ông giống như một tia sét : Alex đang ngâm nga theo lời hát của ông.
Ở một mức độ nào đó, Alex có thể cảm nhận được sự hiện diện của ông.
Quan sát anh một cách chăm chú, bóng ma tiếp tục hát.
Alex đặt khẩu súng trét keo sang một bên, vẫn ở trong vị trí khuỵu gối. Anh chống tay trên đùi, ngâm nga một cách lơ đãng.
Bóng ma ngừng hát và hút vào gần hơn. “Alex,” Ông nói một cách thận trọng. Khi không có sự đáp lại, ông nói trong sự nổ bùng của niềm hy vọng thiếu kiên nhẫn và háo hức, “Alex, tôi ở đây.”
Alex chớp mắt, giống như một người vừa ra khỏi một căn phòng tối bước vào vùng đầy ánh sáng đến lóa mắt. Anh nhìn thẳng vào bóng ma, đôi mắt anh mở rộng với đường viền đen và băng đá.
“Cậu có thể thấy tôi sao?” Bóng ma hỏi trong sự sửng sốt.
Trườn ra sau, Alex ngồi bệt xuống sàn. Theo cùng sức đẩy, anh túm lấy một dụng cụ gần nhất, một cái búa. Kéo nó ra sau như thể anh định phóng nó vào bóng ma, anh gầm gừ. “Ông là gã quái nào thế?”

Không có nhận xét nào: