Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Chương kết - TLS

Epilogue.
Ronnie.

Trong những tuần lễ kể từ đám tang của cha cô, Ronnie tiếp tục trải qua vài biến động cảm xúc, nhưng cô cho rằng điều đó không ngoài những gì đã mong đợi. Có những ngày, khi cô tỉnh dậy với cảm giác khiếp sợ, cô đã trải qua hàng giờ hồi tưởng vài tháng cuối cùng bên cha cô, quá tê liệt với niềm thương tiếc và nỗi ân hận để có thể khóc. Sau một thời kỳ gắn bó cùng nhau đến thế, thật khó để cô chấp nhận rằng ông đã đột ngột ra đi, ngoài tầm với của cô, bất kể cô cần ông nhiều đến thế nào. Cô cảm thấy sự thiếu vắng ông như một lưỡi dao nhói buốt mà cô không thể chịu đựng được, và đôi khi để cô lại trong một tâm trạng chua xót.
Nhưng những buổi sáng đó không còn thường xuyên như trong tuần lễ đầu tiên cô về nhà, và cô nhận ra, theo thời gian, chúng đã ngày càng ít thường xuyên hơn. Việc ở lại và chăm sóc cha cô đã thay đổi cô, và cô biết cô sẽ vượt qua được. Đó là những gì cha cô sẽ muốn, và cô gần như có thể nghe thấy ông nhắc nhở cô rằng cô mạnh mẽ hơn cô biết. Ông sẽ không muốn cô than khóc trong nhiều tháng; ông sẽ muốn cô sống cuộc đời của cô theo cách mà ông đã sống trong năm cuối cùng của cuộc đời ông. Nhiều hơn bất kỳ điều gì khác, ông muốn cô ghì chặt lấy cuộc đời và vững bước.
Jonah cũng vậy. Cô biết cha cô sẽ muốn cô giúp Jonah tiến lên, và vì cô đã về nhà, cô sẽ có nhiều thời gian với cậu bé. Ít hơn một tuần sau khi họ trở về, Joanh đã rời trường cho kỳ nghỉ Giáng Sinh, và cô dùng thời gian đó để làm một chuyến du ngoạn đặc biệt cùng cậu bé : Cô đưa cậu đi trượt băng ở Trung Tâm Rockefeffler và đưa cậu lên nóc tòa nhà chọc trời Empire State; họ viếng thăm triển lãm khủng long tại bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia, và cô thậm chí còn trải qua phần lớn buổi chiều tại FAO Schwarz*. Cô luôn coi những nơi đó như là thứ để hấp dẫn du khách và sáo rỗng không thể chịu nổi, nhưng Jonah thích chuyến du ngoạn của họ, và thật đáng ngạc nhiên, cô cũng thế.
(*FAO Schwarz : Tòa nhà bán lẻ và triển lãm đồ chơi lâu đời nhất và lớn nhất ở khu vực Bắc Mỹ.)
Họ cũng trải qua giây phút tĩnh lặng bên nhau. Cô ngồi bên cậu lúc cậu xem phim hoạt hình, vẽ tranh cùng cậu trên bàn bếp, và một lần, theo yêu cầu của cậu, thậm chí cô còn cắm trại trong phòng cậu, ngủ dưới sàn bên cạnh giường cậu. Trong giây phút riêng tư đó, đôi lúc họ hồi tưởng lại mùa hè và kể những câu chuyện về cha họ, diều khiến cho cả hai tìm thấy sự an ủi.
Tuy vậy, cô biết Jonah đã đấu tranh theo cách của một đứa trẻ mười tuổi. Dường như có thứ gì đó đặc biệt đang quấy rầy cậu bé, và nó trở thành vấn đề nhức nhối vào một đêm khi họ đi dạo sau bữa tối, một đêm đầy gió. Cơn gió lạnh lẽo đang gào thét và Ronnie phải nhét đôi tay sâu vào trong túi áo khoác, cuối cùng, khi Jonah quay qua cô, liếc trộm lên từ sâu bên dưới chiếc mũ trùm đầu của chiếc áo khoác.
“Mẹ có bệnh không?” Cậu bé hỏi. “Giống như Cha ấy?”
Câu hỏi đáng kinh ngạc đến nỗi cô phải mất một lúc để đáp lại. Cô ngừng bước, khuỵu gối xuống để cô có thể ngang bằng với ánh mắt của cậu bé. “Không. Dĩ nhiên là không rồi. Tại sao em nghĩ thế ?”
“Vì hai người đã không còn cãi nhau nữa. Giống như khi chị ngừng cãi nhau với cha ấy.”
Cô có thể thấy nỗi sợ hãi trong đôi mắt cậu bé và thậm chí, trong cách thức trẻ con, có thể hiểu được tính logic trong suy nghĩ của cậu. Đó là sự thật, sau tất cả - cô và mẹ đã không còn tranh cãi nữa kể từ khi họ quay về. “Mẹ khỏe mà. Bọn chị chỉ phát mệt với chuyện tranh cãi thôi, vì thế bọn chị không còn làm điều đó nữa.”
Cậu bé xem xét gương mặt cô. “Chị hứa chứ?”
Cô kéo cậu bé lại gần, ôm cậu thật chặt. “Chị hứa.”

Thời gian ở bên cha cô thậm chí còn làm biến đổi mối quan hệ của cô với quê nhà. Phải mất ít lâu để cô làm quen với thành phố lần nữa. Cô không còn quen thuộc với tiếng ồn ào không ngừng nghỉ và sự hiện diện liên tục của những người khác; cô đã quên cách những tòa nhà khổng lồ đổ bóng bất tận trên các vỉa hè xung quanh cô và người ta vội vã như thế nào ở mọi nơi, ngay cả trong lối đi hẹp của tiệm tạp hóa. Cô cũng không cảm thấy hòa nhập; khi Kayla gọi đến để xem cô có muốn ra ngoài chơi không, cô đã bỏ qua cơ hội, và Kayla không gọi lại nữa. Dù cô nghĩ họ đã luôn chia sẻ những ký ức, từ thời điểm này, đó sẽ là một loại tình bạn khác. Nhưng Ronnie ổn với điều đó; với việc ở cùng Jonah và luyện tập piano, cô chẳng còn thời gian cho bất kỳ điều gì khác nữa.
Vì cây đàn piano của cha cô chưa được giao đến căn hộ, cô bắt tàu điện ngầm đến Juilliard và thực hành ở đó. Cô đã gọi và nói chuyện với viện trưởng vào ngày đầu tiên trở lại New York. Ông là người bạn tốt của cha cô và xin lỗi về việc đã bỏ lỡ lễ tang. Ông có vẻ ngạc nhiên – và, phải, hứng thú, cô nghĩ – nghe cô nói. Khi cô kể với ông rằng cô đang xem xét lại đơn xin học tại Juilliard, ông đã sắp xếp một buổi hẹn diễn tập vội vã và thậm chí còn giúp cô xúc tiến đơn xin học của cô.
Chỉ ba tuần sau khi trở lại New York, cô đã thực hiện buổi biểu diễn tập với bản nhạc cô đã sáng tác cùng với cha cô. Cô đã có đôi chút han gỉ trong kỹ thuật chơi nhạc cổ điển – ba tuần thì không nhiều thời gian để chuẩn bị cho một buổi biểu diễn trình độ cao – nhưng khi cô rời thính phòng, cô nghĩ cha cô sẽ tự hào về cô. Ngược lại, cô nghĩ với một nụ cười, khi cô nhét quyển nhạc phổ yêu dấu vào dưới cánh tay, ông luôn hiện hữu.
Từ sau buổi diễn thử, cô chơi đàn ở đó ba hoặc bốn giờ một ngày. Viện trưởng đã sắp xếp để cô sử dụng phòng luyện tập của trường, và cô bắt đầu làm sơ vài sáng tác thiếu kinh nghiệm. Cô nghĩ đến cha cô thường xuyên trong lúc ngồi trong phòng luyện tập, căn phòng tương tự như phòng cha cô đã từng ngồi. Thỉnh thoảng, khi vầng dương sắp lặn, tia nắng bị lát mỏng giữa những tòa nhà cao tầng quanh cô, rải những sọc dài trên sàn. Và luôn luôn, khi nhìn thấy ánh nắng, cô nghĩ đến ô cửa sổ của ông tại ngôi nguyện đường và dòng thác ánh sáng mà cô nhìn thấy trong lễ tang.
Cô nghĩ không ngừng về Will, dĩ nhiên.
Phần lớn, cô tập trung vào những ký ức về mùa hè của họ hơn là cuộc gặp gỡ ngắn ngủi bên ngoài nhà nguyện. Cô đã không nghe gì về anh từ buổi tang lễ, và khi Giáng Sinh đến rồi đi, cô bắt đầu mất hy vọng là anh sẽ gọi. Cô nhớ anh đã nói gì đó về kỳ nghỉ bên kia đại dương, nhưng khi mỗi ngày trôi qua mà không có một lời từ anh, cô chao đảo giữa việc chắc chắn rằng anh vẫn còn yêu cô và nỗi vô vọng về tình thế của họ. Có lẽ tốt hơn hết anh đừng gọi, cô tự nhủ, có gì thật sự để nói chứ?
Cô cười buồn, ép bản thân đẩy những suy nghĩ như thế đi khỏi. Cô có việc để làm, và khi quay sự chú ý của cô vào dự án gần đây nhất của mình, một bài nhạc mang âm hưởng vùng viễn Tây và Pop, cô nhắc nhở bản thân rằng, đã đến lúc nhìn về phía trước, không phải đàng sau. Cô có thể, hoặc không, được nhận vào Juilliard, dù cho viện trưởng đã nói với cô rằng đơn xin học của cô có vẻ “Rất hứa hẹn.” Bất luận điều gì xảy ra, cô biết tương lai của cô nằm trong âm nhạc, và cách này hay cách khác, cô sẽ tìm ra cách để lấy lại niềm mê say đó.
Trên nóc đàn piano, điện thoại của cô đột ngột bắt đầu rung. Với tay lấy nó, cô nghĩ đó là mẹ cô trước khi liếc vào màn hình. Đông cứng, cô nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại khi nó rung lần thứ hai. Lấy một hơi thở sâu, cô mở ra và áp lên tai.
“Hello?”
“Hi.” Một giọng thân thiết vang lên. “Will đây.”
Cô cố hình dung anh đang gọi từ nơi nào. Dường như có những tiếng vọng sâu lắng phía sau anh, gợi nhớ đến một sân bay.
“Anh vừa ra khỏi máy bay sao?”
“Không, anh đã về được vài ngày. Sao thế?”
“Chỉ là nghe anh có vẻ vui.” Cô nói, cảm thấy trái tim cô chìm xuống một chút. Anh đã về nhà vài ngày rồi mà đến bây giờ mới gọi. “Châu Âu thế nào?”
“Thật sự khá vui. Mẹ anh và anh đã hòa thuận với nhau tốt hơn anh mong đợi. Jonah ra sao rồi?”
“Nó không sao. Nó đang trở nên tốt hơn, nhưng… vẫn còn khó khăn.”
“Anh rất tiếc.” Anh nói, và một lần nữa cô nghe thấy tiếng vọng. Có lẽ anh ở trên hiên sau nhà anh. “Có gì khác xảy ra không?”
“Em đã diễn tập ở Juilliard, và em nghĩ nó thật sự tốt…”
“Anh biết.” Anh nói.
“Làm sao anh biết?”
“Có lý do gì khác để em ở đó nữa chứ?”
Cô cố hiểu ý nghĩa lời đáp của anh. “Ồ, không… Họ chỉ để em luyện tập ở đây cho đến khi cây đàn piano của cha em đến – vì quá trình giảng dạy của cha em ở trường và mọi thứ. Viện trưởng là bạn tốt của ông.”
“Anh hy vọng em không quá bận luyện tập đến nỗi không còn thời gian.”
“Anh đang nói về điều gì vậy?”
“Anh hy vọng em rảnh rỗi để đi chơi vào cuối tuần này. Ý anh là nếu em không có bất kỳ kế hoạch nào khác.”
Cô cảm thấy trái tim cô nảy lên trong lồng ngực. “Anh sẽ đến New York sao?”
“Anh đang ở cùng Megan. Em biết đấy, kiểm tra đôi vợ chồng mới ra sao ấy mà.”
“Khi nào anh đến?”
“Để xem…” Cô gần như có thể thấy anh đang nheo mắt vào đồng hồ của mình. “Anh hạ cánh cách đây chưa đầy một giờ.”
“Anh ở đây ư? Anh ở nơi nào thế?”
Anh mất một lúc để đáp lại, và khi cô nghe giọng anh lần nữa, cô nhận ra nó không đến từ điện thoại. Nó đến từ phía sau cô. Quay người, cô nhìn thấy anh bên khung cửa, tay cầm điện thoại.
“Xin lỗi.” Anh nói. “Anh không thể cưỡng lại được.”
Cho dù anh đã ở đây, cô vẫn không thể tin được điều đó. Cô khép chặt mắt  trước khi mở ra lại.
Yep, vẫn còn ở đó. Thật kinh ngạc.
“Sao anh không gọi cho em để em biết anh sắp đến?”
“Vì anh muốn làm em ngạc nhiên.”
Anh chắc chắn đã làm em ngạc nhiên, đó là tất cả những gì cô có thể nghĩ. Mặc quần jeans và áo len dài tay cổ chữ V màu xanh thẫm, anh đẹp trai y như cô nhớ.
“Hơn nữa,” Anh loan báo, “Có vài điều quan trọng anh phải nói với em.”
“Đó là điều gì?” Cô trả lời.
“Trước khi anh nói với em, anh muốn biết liệu chúng ta có một cuộc hẹn hò không.”
“Gì cơ?”
“Cuối tuần này, nhớ không? Chúng ta có không?”
Cô cười. “Vâng, chúng ta có.”
Anh gật đầu. “Cuối tuần sau đó thì thế nào?”
Lần đầu tiên, cô do dự, “Anh định ở lại bao lâu?”
Chậm rãi, anh tiến lại bên cô. “À… Đó là những gì anh muốn nói với em. Em có nhớ có lần anh đã nói Valderbilt không phải là lựa chọn đầu tiên của anh không? Rằng anh thật sự muốn vào một trường với một chương trình khoa học môi trường đáng kinh ngạc không?”
“Em nhớ.”
“Trường này bình thường không cho phép chuyển trường giữa năm học, nhưng mẹ anh ở trong ban quản trị của Valderbilt, bà tình cờ quen biết vài người tại ngôi trường đó và có thể giật vài sợi dây. Dù sao đi nữa, anh đã phát hiện rằng anh đã được chấp nhận trong lúc anh đang ở Châu Âu, vì vậy anh sẽ chuyển trường. Anh bắt đầu học kỳ kế tiếp ở đó và anh nghĩ em có thể muốn biết.”
“Ồ… Thật tốt cho anh.” Cô nói một cách không chắc chắn. “Anh sẽ đi đâu?”
“Columbia.”
Trong một thoáng, cô không chắc là mình có nghe đúng hay không. “Anh muốn nói trường đại học Columbia ở New York ư?”
Anh cười toe toét như thể anh vừa kéo một con thỏ ra khỏi chiếc mũ. “Chính là nó.”
“Thật không?” Giọng cô buột ra trong âm vực cao.
Anh gật đầu. “Anh bắt đầu trong một đôi tuần nữa. Em có thể hình dung ra không? Một chàng trai Miền Nam tử tế giống như anh bị mắc kẹt trong một thành phố lớn? Anh chắc chắc sẽ cần ai đó giúp anh điều chỉnh, và anh hy vọng đó có thể là em. Nếu như em ổn với điều đó.”
Vào lúc đó, anh đứng đủ gần để vươn đến những chiếc móc trên quần jeans của cô. Khi anh kéo cô về phía anh, cô cảm thấy mọi thứ xung quanh tan biến mất. Will sẽ học ở đây. Ở New York. Với cô.
Và với điều đó, cô trượt cánh tay quanh anh, cảm thấy thân thể anh tỳ sát một cách hoàn hảo vào cô, biết rằng không gì từng có thể tốt hơn khoảnh khắc này, ngay lúc này. “Em đoán là em sẽ ổn với điều đó. Nhưng nó sẽ không dễ dàng đối với anh đâu. Họ không hay câu cá hoặc vấy bùn ở quanh đây.”
Cánh tay anh di chuyển trên eo cô. “Anh đoán thế.”
“Và cũng không có nhiều bóng chuyền bãi biển. Đặc biệt vào tháng Giêng.”
“Anh đoán anh phải mất vài sự hy sinh.”
“Có lẽ nếu như anh may mắn, chúng ta có thể tìm cho anh vài cách khác để choán thời gian của anh.”
Nghiêng người, anh hôn cô dịu dàng, thoạt đầu trên má, sau đó trên môi. Khi anh nhìn vào mắt cô, cô thấy chàng trai cô đã yêu mùa hè vừa qua và chàng trai cô vẫn yêu bây giờ.
“Anh chưa bao giờ ngừng yêu em, Ronnie. Và anh chưa một lần ngừng nghĩ về em. Dù cho mùa hè đã đến rồi đi.”
Cô mỉm cười, biết rằng anh đang nói sự thật.
“Em cũng yêu anh, Will Blakelee.” Cô thì thầm, nhón chân để hôn anh lần nữa.

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

Chương 36 + 37 - TLS

36.
Steve.

Cuộc đời, ông nhận ra, rất giống một bản nhạc.
Thoạt đầu là điều huyền bí, lúc kết thúc là sự xác nhận, nhưng trong khoảng giữa, nơi tất cả những cảm xúc thể hiện khiến cho toàn bộ mọi thứ đáng để bõ công.
Lần đầu tiên trong nhiều tháng, ông không hề cảm thấy đau đớn chút nào nữa; lần đầu tiên trong nhiều năm, ông biết câu hỏi của ông đã được trả lời. Khi ông lắng nghe bản nhạc mà Ronnie đã hoàn tất, bản nhạc mà Ronnie đã hoàn thiện, ông nhắm mắt trong nhận biết rằng việc tìm kiếm của ông về sự hiện hữu của Thiên Chúa đã được hoàn thành.
Cuối cùng, ông hiểu rằng Thiên Chúa hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc, và được trải nghiệm bởi mọi người lúc này hay lúc khác. Với ông, đó là trong gian xưởng khi ông dốc sức trên ô cửa sổ cùng Jonah; trong những tuần ông trải qua cùng Ronnie. Ở đây và bây giờ khi con gái ông đang chơi nhạc khúc của họ, giai điệu cuối cùng họ từng chia sẻ. Trong hồi tưởng, ông tự hỏi, làm sao ông có thể bỏ qua những điều hiển nhiên đến khó tin như vậy.
Thiên Chúa, ông đột ngột hiểu, là tình yêu trong thể thức hoàn hảo nhất của nó, và trong những tháng cuối cùng này, với những đứa trẻ của ông, ông cảm thấy bàn tay của Người, một cách chắc chắn cũng như ông nghe thấy tiếng nhạc đang tuôn trào từ đôi bàn tay của Ronnie.

37.
Ronnie.

Cha cô chết không đầy một tuần sau đó, trong giấc ngủ, với Ronnie nằm trên sàn bên cạnh ông. Ronnie không thể để bản thân nói đến những chi tiết. Cô biết mẹ cô đang đợi cô kết thúc; trong ba giờ cô kể chuyện, mẹ chìm trong im lặng, như cách cha cô luôn làm. Nhưng giây phút cô nhìn cha cô trút hơi thở cuối cùng là cảm xúc riêng tư mãnh liệt đối với cô, và cô biết cô sẽ không bao giờ nói về chúng với bất kỳ ai. Việc được ở bên cạnh cha khi ông rời bỏ thế giới là một món quà mà ông trao tặng cô, và chỉ dành cho cô, và cô sẽ không bao giờ quên cách trang nghiêm và thân thiết mà cô cảm nhận. Thay vì thế cô nhìn chằm chằm vào cơn mưa tháng Mười Hai lạnh giá và kể với bà về cuộc biểu diễn cuối cùng, cuộc biểu diễn quan trọng nhất trong cuộc đời của cô.
“Con đã chơi đàn cho cha lâu như con có thể. Mẹ à. Và con đã cố hết sức để khiến nó đẹp đẽ vì cha, vì con biết nó có ý nghĩa như thế nào đối với ông. Nhưng cha đã quá yếu,” Cô thì thầm, “Vào lúc cuối cùng, con không chắc ông có thể nghe được không nữa.” Cô siết chặt sống mũi, tự hỏi vu vơ rằng liệu cô có còn chút nước mắt nào để tuôn chảy nữa hay không. Đã có quá nhiều nước mắt rồi.
Mẹ cô mở rộng vòng tay và gật đầu ra hiệu với cô. Những giọt lệ đang lấp lánh trong đôi mắt bà.
“Mẹ biết là ông ấy nghe thấy con, con yêu. Và mẹ biết là chúng đẹp đẽ.”
Ronnie trao tặng bản thân vào vòng ôm của mẹ cô, đặt đầu cô trên ngực bà như cô thường làm khi còn nhỏ.
“Đừng bao giờ quên rằng con và Jonah đã làm cho ông ấy hạnh phúc như thế nào.” Mẹ cô thì thào, vuốt ve mái tóc cô.
“Ông ấy cũng làm con hạnh phúc.” Cô suy tư. “Con đã học được rất nhiều từ ông. Con chỉ ao ước rằng phải chi con đã nghĩ ra để nói với ông. Điều đó, và cả triệu điều khác nữa.” Cô nhắm mắt. “Nhưng bây giờ đã quá trễ.”
“Ông ấy biết.” Mẹ cô cam đoan với cô. “Ông ấy luôn luôn thấu hiểu.”

Lễ tang là một sự kiện đơn giản, tiến hành trong ngôi nguyện đường vừa mới mở cửa lại gần đây. Cha cô đã yêu cầu được hỏa táng, và di nguyện của ông được thực hiện.
Mục sư Harris đọc bài phát biểu. Nó ngắn nhưng đầy ắp nỗi tiếc thương chân thực và tình yêu. Ông đã yêu cha cô như một người con trai, và bất chấp bản thân, Ronnie đã khóc cùng Jonah. Cô trượt tay quanh cậu bé khi cậu nức nở những tiếng khóc hoang mang của một đứa trẻ, và cô cố không nghĩ đến việc cậu bé sẽ nhớ về sự mất mát này như thế nào, quá sớm trong cuộc đời.
Chỉ một nhóm người đến buổi lễ. Cô nhận ra Galadriel và cảnh sát Pete khi họ đi vào và nghe tiếng cánh của nhà nguyện mở ra một hay hai lần sau khi cô lấy chỗ ngồi, nhưng ngoài điều đó, ngôi nguyện đường gần như trống vắng. Cô đau đớn với ý nghĩ rằng chỉ vài người biết cha cô đặc biệt ra sao và ông có ý nghĩa với cô nhiều như thế nào.

Sau buổi lễ, Cô tiếp tục ngồi trong ghế với Jonah trong lúc Brian và mẹ cô ra bên ngoài để nói chuyện với mục sư Harris. Bốn người họ sẽ bay về New York trong vài giờ nữa, và cô biết cô không có nhiều thời gian.
Dù vậy, cô không muốn rời đi. Cơn mưa, như trút nước xuống suốt buổi sáng, đã ngừng rơi, và bầu trời bắt đầu quang đãng. Cô đang cầu nguyện cho điều đó, và cô thấy bản thân đang nhìn chằm chằm vào ô cửa sổ của cha cô, ao ước rằng mây sẽ tách ra.
Và khi vầng dương hé rạng, điều đó giống y như những gì cha cô đã mô tả. Ánh nắng tràn ngập xuyên qua lớp kính, hàng trăm lăng kính như những viên đá quý, tách thành những ánh sáng đầy màu sắc huy hoàng tráng lệ. Cây đàn piano đứng trong một dòng thác ánh sáng lộng lẫy, và trong khoảnh khắc Ronnie tưởng tượng hình ảnh cha cô đang ngồi bên phím đàn, gương mặt ngước lên ánh sáng. Điều đó không kéo dài, nhưng cô siết chặt bàn tay của Jonah trong sự yên lặng sùng kính. Bất chấp sức nặng của nỗi đau buồn, cô mỉm cười, biết rằng Jonah cũng đang nghĩ điều tương tự.
“Chào, Cha yêu.” Cô thì thầm. “Con biết cha sẽ đến.”

Khi ánh sáng phai tàn, cô nói lời chia tay thầm lặng và kéo bản thân đứng lên. Nhưng khi nhìn quanh, cô thấy rằng cô và Jonah không ở một mình trong nhà nguyện. Gần cửa, trong hàng ghế cuối cùng, cô thấy Tom và Susan Blakelee.
Cô đặt bàn tay lên vai Jonah. “Em sẽ ra ngoài nói với Mẹ và Brian chị sẽ ra ngay nhé? Chị phải nói chuyện với vài người trước.”
“Được.” Cậu bé nói, xoa nắn đôi mắt sưng phồng của mình bằng nắm tay khi cậu ra khỏi nhà nguyện. Ngay khi cậu bé đi khuất, cô bắt đầu tiến về phía họ, quan sát khi họ đứng lên chào hỏi cô.
Thật ngạc nhiên cho cô, Susan là người nói trước.
“Bác rất tiếc cho mất mát của cháu. Mục sư Harris đã kể với chúng tôi cha cháu là một người tuyệt vời.”
“Cám ơn bác.” Cô nói. Cô nhìn cha mẹ của Will từ người này đến người kia và mỉm cười. “Cháu rất cảm kích rằng hai bác đã đến. Và cháu cũng muốn cảm ơn hai bác về những gì đã làm cho nhà nguyện. Điều đó thật sự quan trọng đối với cha cháu.”
Với lời lẽ của cô, cô thấy Tom Blakelee nhìn ra xa và cô biết cô đã đúng. “Điều đó được cho là ẩn danh cơ mà.” Ông thì thào.
“Cháu biết. Và mục sư Harris không nói với cháu hay cha cháu đâu ạ. Nhưng cháu đoán ra sự thật khi cháu nhìn thấy bác tại công trường. Đó là một điều đẹp đẽ, những gì bác đã làm ấy.”
Ông gật đầu gần như bẽn lẽn, và cô thấy ánh mắt ông lướt qua ô cửa sổ. Ông cũng vậy, đã thấy được ánh sáng tuôn tràn trong gian nhà nguyện.
Trong im lặng, Susan vẫy tay về hướng cửa. “Có một người ngoài đó muốn gặp cháu.”

“Con đã sẵn sàng chưa?” Mẹ cô hỏi ngay khi cô ra khỏi nhà nguyện. “Chúng ra sắp trễ rồi.”
Ronnie chỉ vừa vặn nghe được bà nói. Thay vì thế, cô nhìn chằm chằm vào Will. Anh mặc bộ lễ phục màu đen, tóc anh dài hơn, và ý nghĩ đầu tiên của cô là điều đó khiến anh trông chững trạc hơn. Anh đang nói chuyện với Galadriel, nhưng ngay khi anh nhìn thấy cô, cô thấy anh giơ một ngón tay như thể yêu cầu cô giữ lại ý nghĩ đó.
“Con cần thêm vài phút nữa, được không?” Cô nói mà không rời mắt khỏi Will.
Cô đã không mong anh đến, không mong được gặp anh lần nữa. Cô không biết việc anh ở đây có ý nghĩa gì, và không chắc liệu cô đang có cảm giác ngây ngất, hay đau đớn, hoặc cả hai nữa. Cô lấy một bước về hướng anh và ngừng lại.
Cô không thể đọc được biểu hiện của anh. Khi anh bắt đầu tiến về hướng cô, cô nhớ đến cách anh trượt trên cát trong lần đầu tiên cô gặp anh; cô nhớ nụ hôn của họ trên bến tàu trong đêm đám cưới của chị anh. Và cô nghe lại những lời lẽ cô đã nói với anh vào đêm họ chia tay. Cô bị vây hãm bởi một cơn bão những cảm xúc xung đột – khao khát, hối tiếc, mong ước, sợ hãi, đau buồn, yêu thương… Quá nhiều điều để nói, tuy vậy, họ có thể thực sự bắt đầu nói điều gì đây, trong tình thế ngượng nghịu này, khi quá nhiều thời gian đã trôi qua?
“Chào anh.” Giá như em có năng lực ngoại cảm, và anh có thể đọc được tâm trí em.
“Chào em.” Anh nói. Anh có vẻ đang tìm kiếm điều gì đó trên gương mặt cô, nhưng đó là điều gì thì cô không biết.
Anh không tiến đến nữa, và cô cũng không vươn tới anh.
“Anh đã đến.” Cô nói, không thể ngăn lại vẻ ngạc nhiên trong giọng cô.
“Anh không thể không đến. Và anh rất tiếc về cha em. Ông là… một người tuyệt vời.” Trong khoảnh khắc, dường như một bóng tối đổ qua gương mặt anh, và anh nói thêm, “Anh sẽ nhớ ông.”
Cô lóe lên ký ức về những buổi tối của họ bên nhau tại nhà cha cô, hương vị từ việc nấu nướng của ông và âm thanh tiếng cười của Jonah khi họ chơi bài poker lừa phỉnh. Đột ngột cô cảm thấy choáng váng. Tất cả quá phi thực, khi thấy Will ở đây, trong ngày khủng khiếp này. Một phần trong cô muốn quăng mình vào vòng tay anh và tạ lỗi về cách cô đã để anh đi. Nhưng một phần khác, lặng câm và tê liệt trước mất mát của cha cô, tự hỏi không biết cô có còn là người Will đã từng yêu trước đây không. Quá nhiều thứ đã xảy ra kể từ mùa hè.
Cô chuyển động vụng về từ chân này sang chân kia. “Vanderbilt thế nào?” Cuối cùng cô hỏi.
“Như những gì anh đã mong đợi.”
“Là tốt hay xấu?”
Thay cho câu trả lời, anh hất đầu về chiếc xe thuê. “Anh đưa em về nhà, nhé?”
“Em sẽ bắt chuyến bay trong một lúc nữa.” Cô vén một lọn tóc vào sau tai, ghét cảm giác thiếu tự nhiên mà cô cảm thấy. Như thể họ là những người xa lạ. “Anh đã hoàn thành học kỳ rồi sao?”
“Không, tuần tới anh phải thi cuối khóa, vì vậy đêm nay anh sẽ bay về lại. Lớp học của anh khó hơn anh tưởng. Anh chắc chắn sẽ phải tranh thủ vài đêm thức trắng.”
“Chẳng bao lâu nữa anh sẽ về nhà vào kỳ nghỉ. Một vài cuộc dạo chơi trên bờ biển và anh sẽ lại tốt như mới thôi.” Ronnie tập trung một nụ cười động viên.
“Thật ra, cha mẹ anh sẽ lôi anh đến Châu Âu ngay khi anh kết thúc học kỳ. Chúng tôi sẽ trải qua Giáng Sinh tại Pháp. Họ nghĩ việc nhìn thấy thế giới thật quan trọng cho anh.”
“Điều đó nghe có vẻ vui.”
Anh nhún vai. “Em thì sao?”
Cô ngoảnh nhìn đi, trí óc cô tự động lóe lên những ngày cuối cùng của cô với cha cô.
“Em nghĩ em sẽ đến buổi diễn thử ở Juilliard.” Cô nói chậm rãi. “Để xem liệu họ có còn muốn em nữa không.”
Lần đầu tiên, anh cười, và cô bắt được một thoáng hiện về vẻ vui thích không ngượng ngập mà anh đã bộc lộ quá thường xuyên trong suốt những tháng mùa hè ấm áp đó. Cô đã nhớ niềm vui thích của anh, sự ấm áp của anh biết bao trong suốt chặng đường dài của mùa thu và mùa đông. “Vậy ư? Tốt cho em. Và anh chắc chắn em sẽ làm tốt.”
Cô ghét cách họ đang nói vòng quanh bên lề mọi thứ. Nó có cảm giác quá… sai lầm, căn cứ vào mọi thứ họ đã chia sẻ trong mùa hè, và tất cả những gì họ đã trải qua cùng nhau. Cô hít một hơi thở sâu, cố kiểm soát cảm xúc, nhưng ngay lúc này điều đó quá khó, và cô đã rất mệt. Những lời lẽ kế tiếp buột ra gần như tự động
“Em muốn xin lỗi về những điều em đã nói với anh. Em không có ý như vậy. Quá nhiều thứ đang xảy ra, em không nên trút tất cả lên anh…”
Anh bước tới trước và vươn đến cánh tay cô. “Không sao đâu,” Anh nói. “Anh hiểu mà.”
Với cái chạm tay của anh, cô cảm thấy như tất cả cảm xúc bị dồn nén bùng cháy, lấn áp sự điềm tĩnh mong manh của cô, và cô khép chặt mắt, cố ngăn những giọt lệ. “Nhưng nếu anh làm những gì em yêu cầu, thì Scott…”
Anh lắc đầu. “Scott ổn mà. Tin hay không, cậu ấy thậm chí còn lấy được học bổng. Và Marcus đã vào tù…”
“Nhưng em không nên nói những điều khủng khiếp đó với anh!” Cô ngắt lời. “Mùa hè không nên kết thúc như vậy. Chúng ta không nên kết thúc như vậy, và em là người đã gây ra. Anh không thể biết em đã đau đớn như thế nào khi nghĩ rằng em đã xua đuổi anh đi…”
“Em không xua đuổi anh,” Anh nói dịu dàng. “Anh phải đi. Em biết điều đó mà.”
“Nhưng chúng ta đã không nói chuyện, chúng ta không viết thư, và thật khó khăn khi nhìn những gì xảy đến với cha em… Em rất muốn nói chuyện với anh, nhưng em biết anh giận em…”
Khi cô bắt đầu khóc, anh kéo cô vào lòng và quàng tay quanh cô. Không hiểu sao, vòng ôm của anh khiến cho mọi thứ tốt hơn và tệ hơn cùng một lúc.
“Shhh” Anh thì thào. “Ổn rồi mà. Anh không bao giờ giận em như em nghĩ đâu.”
Cô ôm anh chặt hơn, cố bám víu vào những gì họ chia sẻ. “Nhưng anh chỉ gọi cho em hai lần.”
“Vì anh biết cha em cần em,” Anh nói, “Và anh muốn em tập trung vào ông, không phải anh. Anh biết điều đó như thế nào khi Mikey chết, và anh nhớ đã ao ước rằng anh có thêm chút thời gian với em ấy. Anh không thể lấy điều đó của em.”
Cô vùi mặt vào vai anh khi anh ôm cô. Tất cả những gì cô có thể nghĩ là cô cần anh biết bao. Cô cần cánh tay anh quanh cô, cần anh ôm cô và thì thầm rằng họ đã tìm ra cách để được ở bên nhau.
Cô cảm thấy anh nghiêng xuống cô và nghe anh thì thầm tên cô. Khi cô lui lại, cô thấy anh đang mỉm cười với cô.
“Em đang mang chiếc vòng tay,” Anh thì thầm, chạm vào cổ tay cô.
“Mãi mãi trong tâm trí tôi.” Cô nở một nụ cười run rẩy.
Anh nâng cằm cô để anh có thể nhìn kỹ vào đôi mắt cô. “Anh sẽ gọi cho em, được không? Sau khi anh trở về từ Châu Âu.”
Cô gật đầu, biết rằng đó là tất cả những gì họ có, dù biết điều đó vẫn không đủ. Cuộc đời họ rẽ theo những ngả đường riêng biệt, bây giờ và mãi mãi. Mùa hè đã trôi qua, và mỗi người đi một phương.
Cô nhắm mắt, căm ghét sự thật.
“Được mà.” Cô thì thầm.

Thứ Hai, 27 tháng 8, 2012

Chương 35 - TLS

35.
Ronnie.

Ronnie ra ngoài với mẹ cô và Jonah nhìn họ đi khỏi, để cô có thể nói chuyện riêng với bà trước khi bà đi, cô yêu cầu bà làm vài thứ cho cô ngay khi bà trở lại New York. Rồi cô quay lại bệnh viện và ngồi cùng cha cô, đợi cho đến khi ông rơi vào giấc ngủ. Trong một lúc lâu, ông tiếp tục im lặng, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ. Cô giữ bàn tay ông, và họ ngồi bên nhau mà không nói năng gì, cả hai quan sát những đám mây trôi chầm chậm bên ngoài khung kính.
Cô muốn duỗi chân và kiếm đôi chút không khí trong lành; lời chia tay của cha cô với Jonah để cô lại với sự kiệt quệ và run rẩy. Cô không muốn tưởng tượng hình ảnh em trai cô trên máy bay hay đang bước vào căn hộ của họ; không muốn biết liệu cậu bé có vẫn còn đang khóc hay không.
Ra ngoài, cô đi dạo dọc theo lối đi bộ phía trước bệnh viện, để đầu óc suy nghĩ vẩn vơ. Cô gần như vượt qua ông khi cô nghe thấy ông tằng hắng. Ông đang ngồi trên một chiếc ghế dài; bất chấp thời tiết nóng nực, ông mặc kiểu áo dài tay như ông vẫn luôn mặc.
“Chào Ronnie,” Mục sư Harris nói.
“Oh… Chào cha.”
“Ta đang mong được thăm cha con.”
“Ông đang ngủ.” Cô nói. “Nhưng cha có thể đến nếu cha muốn.”
Ông gõ nhẹ cậy gậy chống, kéo dài thời gian. “Cha rất tiếc về những gì con đang trải qua, Ronnie.”
Cô gật đầu, thấy thật khó để tập trung. Thậm chí cuộc trò chuyện đơn giản này cũng không thể chịu đựng được.
Không hiểu sao cô có cảm nhận là ông cũng có cảm giác tương tự.
“Con sẽ cầu nguyện cùng cha chứ?” Đôi mắt xanh của ông tỏ vẻ nài nỉ. “Ta muốn cầu nguyện trước khi gặp cha con. Điều đó… sẽ giúp ta.”
Nỗi ngạc nhiên của cô mở ra cách thức cho một cảm nhận khuây khỏa không mong đợi.
“Con muốn điều đó rất nhiều.” Cô trả lời.

Sau đó cô bắt đầu cầu nguyện thường xuyên, và cô thấy mục sư Harris đã đúng.
Không phải là cô tin cha cô sẽ được lành bệnh. Cô đã nói chuyện với bác sĩ và nhìn thấy hình chụp cắt lớp, và sau cuộc trò chuyện đó, cô đã rời khỏi bệnh viện, đến bãi biển và khóc suốt một giờ cho đến khi nước mắt khô đi trong gió.
Cô không tin vào phép màu. Cô biết một số người đã tin, nhưng cô không thể ép buộc bản thân nghĩ rằng bằng cách nào đó cha cô sẽ đạt được điều đó. Không, sau những gì cô đã thấy; không, sau cách mà vị bác sĩ đã giải thích về chúng. Khối u, cô đã học được rằng, đã di căn từ dạ dày đến tụy và phổi của ông rồi, và việc đưa ra hy vọng dường như… nguy hiểm. Cô không hình dung việc phải gợi lên lần thứ hai những gì đã xảy đến với ông. Đã đủ khó khăn rồi, đặc biệt muộn màng khi ngôi nhà tĩnh lặng và cô cô đơn với những suy nghĩ của mình.
Thay vì thế, cô cầu xin có được sức mạnh mà cô cần để giúp đỡ cha cô; cô cầu xin giữ được bình tĩnh hoàn toàn trước mặt ông, thay vì khóc lóc mọi lúc gặp ông. Cô biết ông cần tiếng cười của cô và ông cần người con mà gần đây cô đã trở thành.
Điều đầu tiên cô làm sau khi đưa ông từ bệnh viện về nhà là để ông nhìn thấy ô cửa sổ kính màu. Cô quan sát khi ông chầm chậm tiến đến chiếc bàn, đôi mắt ông xem xét mọi thứ, vẻ mặt ông sửng sốt trong nỗi hoài nghi. Cô biết có những giây phút ông đã tự hỏi không biết liệu ông có sống đủ lâu để nhìn thấy mọi thứ cho đến tận cùng hay không. Hơn bất kỳ điều gì khác, cô ước Jonah ở đó với họ, và cô biết cha cô đang nghĩ điều tương tự. Đó là dự án của họ, cách họ đã trải qua mùa hè cùng nhau. Ông nhớ Jonah kinh khủng, ông nhớ cậu bé nhiều hơn bất cứ điều gì trên đời, và dù ông quay đi để cô không thể nhìn được mặt ông, cô biết có những giọt lệ trên đôi mắt ông khi ông đi trở lại ngôi nhà.
Ông gọi cho Jonah ngay khi ông đi vào bên trong. Từ phòng sinh hoạt chung, Ronnie có thể nghe thấy cha cô đang cam đoan rằng ông đã khỏe hơn, và mặc dù Jonah có khả năng hiểu sai điều đó, cô biết cha cô đang làm điều đúng. Ông muốn Jonah nhớ về những điều hạnh phúc của mùa hè, không chú tâm vào những gì xảy ra sau đó.
Đêm đó khi ông ngồi trên ghế dài, ông mở quyển Thánh Kinh và bắt đầu đọc. Bây giờ Ronne đã hiểu lý do của ông. Cô lấy một chỗ ngồi bên cạnh ông, hỏi những câu hỏi mà cô đã băn khoăn kể từ khi cô tự mình xem xét cuốn sách.
“Cha có đoạn văn nào ưa thích không?” Cô hỏi.
“Nhiều.” Ông nói. “Cha luôn thích Thánh Vịnh. Và cha luôn học được từ Những bức thư của Thánh Paul.”
“Nhưng cha không gạch dưới câu nào hết.” Cô nói. Khi thấy ông nhướng mày, cô nhún vai. “Con đã nhìn qua lúc cha không ở đây và con không thấy gì hết.”
Ông suy nghĩ về câu trả lời. “Nếu cha thử gạch dưới đoạn nào đó quan trọng, chắc chắn cha sẽ kết thúc với việc gạch dưới toàn bộ mọi thứ. Cha đã đọc rất nhiều lần và cha luôn học được thứ gì đó mới.”
Cô nghiên cứu ông một cách tỉ mỉ. “Con không nhớ đã thấy cha đọc Kinh Thánh trước đây…”
“Đó là vì con còn nhỏ. Cha đã giữ quyển Kinh Thánh này ở giường của cha, và đọc vài đoạn khoảng một đến hai lần mỗi tuần. Hỏi mẹ con xem. Bà ấy sẽ cho con biết.”
“Cha sẽ đọc đoạn gần đây cha thích để chia sẻ chứ?”
“Con muốn cha làm thế ư?”
Sau khi cô gật đầu, chỉ mất một phút để tìm ra đoạn văn mà ông muốn.

“Đó là sách Galatians chương 5 câu 22,” Ông nói, đè quyển Kinh Thánh phẳng ra trên lòng ông. Ông hắng giọng trước khi đọc. “Nhưng khi Chúa Thánh Thần kiểm soát cuộc đời của chúng ta, Người sẽ giới thiệu cho chúng ta vài loại cây trái : Tình Yêu, Niềm Vui, Hòa Bình, Kiên Nhẫn, Ân Cần, Lòng Tốt, Thủy Chung, Hiền lành, và Tự Chủ.”
Cô quan sát ông khi ông đọc Thánh Thư, nhớ lại cách cô đã hành động trong ngày đầu tiên cô đến ra sao và ông phản ứng đối với sự giận dữ của cô như thế nào. Cô nhớ lại những lần ông từ chối tranh cãi với mẹ cô, ngay cả khi bà cố khiêu khích ông. Cô đã gán cho điều đó là nhu nhược và đã mong ước cha cô khác đi. Nhưng đột nhiên, cô biết, cô đã sai về mọi thứ.
Cha cô, bây giờ cô đã biết, không bao giờ hành động một mình. Chúa Thánh Thần luôn kiểm soát cuộc sống của ông.

Bưu kiện từ mẹ cô đến ngày hôm sau, và Ronnie biết mẹ cô đã làm những gì cô yêu cầu. Cô mang chiếc phong bì lớn vào bàn bếp và xé một đường trên miệng thư, rồi đổ những thứ chứa bên trong trên bàn.
Mười chín bức thư, tất cả đều của cha cô gởi, tất cả đều bị lờ đi và không được mở. Cô lưu ý đến những địa chỉ phản hồi khác nhau mà ông đã nguệch ngoạc trên bì thư : Bloomington, Tulsa, Little Rock…
Cô không thể tin được rằng cô đã không đọc chúng. Cô thật sự giận dữ đến thế sao? Quyết liệt đến thế sao? Nhiều ý nghĩa… đến thế sao? Nhìn lại, Cô đã biết câu trả lời, nhưng nó vẫn không mang lại nhận thức gì cho cô.
Lật từng bức thư, cô tìm lá đầu tiên ông viết. Như phần lớn những lá thư khác, nó được in sắc sảo bởi mực đen, và dấu bưu điện đã hơi phai nhạt. Xa bên ngoài cửa sổ bếp, cha cô đang đứng trên bãi biển, quay lưng về phía ngôi nhà : Giống như mục sư Harris, ông bắt đầu mặc áo tay dài, bất chấp sức nóng của mùa hè.
Lấy một hơi thở sâu, cô mở bức thư, và ở đó, trong ánh sáng của gian bếp, cô bắt đầu đọc.

Ronnie yêu dấu,
Cha thậm chí không biết làm sao để bắt đầu bức thư này, ngoài việc nói rằng cha xin lỗi.
Đó là lý do tại sao cha yêu cầu con gặp cha tại quán café, và là những gì cha muốn nói đêm sau đó khi cha gọi điện. Cha có thể hiểu tại sao con không đến và tại sao con không nhận cuộc gọi. Con đã giận cha, con đã thất vọng về cha, và trong tim con, con tin rằng cha đã bỏ đi. Trong trí con, con tin rằng cha đã ruồng bỏ con và ruồng bỏ gia đình.
Cha không thể phủ nhận rằng nhiều thứ sẽ khác, nhưng cha muốn con biết, nếu cha là con, cha chắc chắn sẽ cảm thấy cũng nhiều như cách con đang thể hiện. Con có mọi điều chính đáng để giận cha, con có mọi điều chính đáng để thất vọng với cha. Cha cho rằng cha đáng phải chịu những cảm nhận của con, và cha không có ý định cố bào chữa hay cởi bỏ những lời chỉ trích, hoặc cố thuyết phục con rằng con sẽ hiểu vào đúng thời điểm.
Với tất cả sự thành thật, có thể con sẽ không và điều đó làm cha đau lòng nhiều hơn con có thể hình dung được. Con và Jonah luôn có ý nghĩa rất nhiều với cha, và cha muốn con hiểu rằng cả con và Jonah đều không có lỗi gì hết. Đôi khi, vì nhiều lý do luôn không rõ ràng, hôn nhân chỉ không ra sao. Nhưng hãy nhớ điều này : Cha sẽ luôn yêu con, Và cha sẽ luôn yêu Jonah. Cha sẽ luôn yêu mẹ con, và bà ấy luôn có sự kính trọng của cha. Bà ấy là người trao tặng hai món quà tuyệt nhất trên đời mà cha từng được nhận, và bà ấy là một người mẹ tuyệt vời. Trong nhiều cách, bất chấp nỗi buồn mà cha cảm thấy dù mẹ con và cha không còn ở với nhau nữa, cha vẫn tin đó là một ân phúc, vì đã được kết hôn với bà lâu như vậy.
Cha biết điều này là không nhiều và chắc chắn không đủ để làm cho con hiểu, nhưng cha muốn con biết rằng cha vẫn tin vào quà tặng của tình yêu. Cha cũng muốn con tin vào chúng. Con xứng đáng để có điều đó trong cuộc đời của con, vì không điều gì đem lại sự vừa ý hơn bản thân tình yêu.
Cha hy vọng rằng, trong trái tim con, con sẽ tìm ra cách để tha thứ cho cha vì đã ra đi. Đó không phải là bây giờ, hay thậm chí không bao lâu nữa. Nhưng cha muốn con biết điều này : Cuối cùng, khi con sẵn sàng, cha sẽ đợi với vòng tay mở rộng cho những gì sẽ là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời của cha.
Cha yêu con.
Cha.


“Con cảm thấy như con nên làm nhiều hơn cho cha con.” Ronnie nói.
Cô đang ngồi trên hiên sau đối diện với mục sư Harris. Cha cô đang ngủ bên trong nhà, và mục sư Harris đã đến cùng một hộp mì Ý chay bỏ lò mà vợ ông ấy làm. Đã giữa tháng Chín và trời nóng suốt cả ngày, dù có một đêm cách đó đôi ngày đã gợi lên sự mát mẻ của mùa thu. Điều đó chỉ kéo dài được đúng một đêm: vào buổi sáng, mặt trời lại nung nấu, và Ronnie thấy mình đang tản bộ trên bãi biển tự hỏi phải chăng đêm trước là một ảo giác.
“Con đang làm tất cả những gì con có thể.” Ông nói. “Ta không biết liệu có điều gì nhiều hơn mà con có thể làm hay không nữa.”
“Con không nói về việc chăm sóc. Ngay lúc này, ông ấy thậm chí còn không cần con nhiều. Ông vẫn khăng khăng đòi nấu nướng, và chúng con có những cuộc đi dạo trên bãi biển. Thậm chí hôm qua chúng con còn thả diều. Ngoài thuốc giảm đau, thứ thật sự làm ông mệt, ông khá giống trước khi ông đến bệnh viện. Điều đó chỉ…”
Ánh mắt của mục sư Harris đầy thấu hiểu. “Con muốn làm thứ gì đó đặc biệt. Thứ gì đó có ý nghĩa nhiều với cha con.”
Cô gật đầu, thấy vui rằng ông đã ở đây. Trong vài tuần qua, mục sư Harris trở nên không chỉ là một người bạn của cô, mà còn là người cô thật sự có thể nói chuyện.
“Ta có niềm tin rằng Chúa sẽ cho con biết câu trả lời, nhưng con nên hiểu rằng, đôi khi, phải mất một thời gian để có thể nhận ra được những gì Chúa muốn con làm. Đó là cách vẫn thường xảy ra. Tiếng nói của Chúa thường không nhiều hơn một lời thì thầm, và con phải lắng nghe rất kỹ mới có thể nghe thấy. Nhưng thỉnh thoảng, trong những khoảnh khắc hiếm có, câu trả lời rõ ràng và ngân vang, lớn như tiếng chuông nhà thờ ấy.”
Cô cười, nghĩ cô đã ngày càng yêu mến những cuộc trò chuyện của họ. “Nghe như cha đang nói từ kinh nghiệm ấy nhỉ.”
“Ta cũng yêu cha con. Và giống như con, ta muốn làm thứ gì đó đặc biệt cho anh ta.”
“Và Chúa đã trả lời chứ?”
“Chúa luôn trả lời.”
“Là lời thì thầm hay tiếng chuông nhà thờ?”
Lần đầu tiên trong một thời gian dài, cô thấy một nét vui đùa trong mắt ông. “Một tiếng chuông nhà thờ, dĩ nhiên rồi. Chúa biết ta đang rất khó để nghe được trong những ngày này.”
“Cha định làm gì?”
Ông ngồi thẳng lên trên ghế. “Ta sắp lắp đặt ô cửa sổ trong nhà thờ.” Ông nói. “Một nhà hảo tâm đã xuất hiện sau tuần lễ chán nản vừa qua, và không chỉ đề nghị bù đắp toàn bộ phần còn lại của việc sửa chữa, mà còn bao gồm cả đội ngũ nhân công thực hiện nữa. Họ bắt đầu làm việc lại vào sáng mai.”


Đôi ngày kế tiếp trôi qua, Ronnie đã lắng nghe tiếng chuông nhà thờ, nhưng tất cả những gì cô nghe được là những con mòng biển. Khi lắng nghe lời thì thầm, cô chẳng nghe được gì hết. Điều đó không nhất thiết làm cô ngạc nhiên – câu trả lời cũng không đến với mục sư Harris ngay tức thì – nhưng cô hy vọng rằng cô sẽ có được câu trả lời trước khi quá trễ.
Thay vì thế, cô đơn giản tiếp tục làm những gì cô đã làm trước đây. Cô giúp cha cô khi ông cần giúp, để mặc ông khi ông không muốn giúp, và cố xếp đặt phần lớn thời gian còn lại mà họ có cùng với nhau. Cuối tuần đó, vì cha cô cảm thấy khỏe hơn, họ đã làm một chuyến du ngoạn đến Vườn sinh cảnh Orton*, gần thành phố Southport. Nó không xa Wilmington và Ronnie chưa từng đến trước đây, nhưng khi họ đi vào con đường rải sỏi dẫn đến ngôi biệt thư độc đáo, xây dựng vào năm 1735, cô biết đó là một ngày đáng nhớ. Đó là một nơi dường như lạc mất với thời gian. Những bông hoa đã không còn đơm bông, nhưng khi họ tản bộ giữa những thân sồi khổng lồ với những nhánh xà thấp phủ đầy rêu, Ronnie nghĩ cô chưa từng thấy nơi nào đẹp hơn.
(*Orton Plantation Garden : nằm cạnh sông Cape Fear, giữa Wilmington và Southport thuộc bang North Carolina rông 20 mẫu Anh (khoảng 8 Ha) là một địa điểm du lịch với khu bảo tồn động vật hoang dã, vườn hoa, rừng sồi già, ngôi nhà kiểu Antebellum cổ và một nguyện đường màu trắng nổi tiếng, rất nhiều đám cưới được tổ chức tại đây. Đây cũng là một địa điểm được quay trong rất nhiều film.)
Dạo bước bên dưới bóng cây, cánh tay cô móc vào cánh tay của cha cô, họ nói về mùa hè. Lần đầu tiên, Ronnie kể cho cha cô nghe về mối quan hệ của cô với Will. Cô kể cho ông nghe về lần đầu tiên họ đi câu cá, và những lần họ đi vấy bùn, cô mô tả cú nhảy đẹp mắt của anh từ trên nóc phòng thay đồ, và cô kể cho ông nghe tất cả về thất bại trong ngày đám cưới. Tuy vậy, cô không kể với ông về những gì xảy ra vào ngày trước khi anh đến Valderbilt hoặc những gì cô đã nói với anh. Cô không sẵn sàng cho điều đó; vết thương vẫn còn nhói buốt. Và như vẫn luôn thế, khi cô nói, ông lắng nghe một cách yên lặng, hiếm khi xen vào, ngay cả khi cô ngập ngừng. Cô thích điều đó về ông. Không, thay đổi điều đó, cô nghĩ. Cô yêu điều đó về ông, và cô thấy bản thân đang tự hỏi không biết cô sẽ trở thành người như thế nào nếu như cô chưa bao giờ đến đây trong mùa hè.
Sau đó, họ lái xe vào Southport và ăn trưa tại một trong những nhà hàng nhỏ nhìn ra bến cảng. Cô biết cha cô đã thấm mệt, nhưng thức ăn ngon và họ chia nhau chiếc bánh Chocholate hạnh nhân có nhân kẹo mềm vào cuối bữa ăn.
Đó là một ngày thật tuyệt, một ngày cô biết cô sẽ nhớ mãi. Nhưng khi cô ngồi một mình trong phòng sinh hoạt chung sau khi cha cô vào giường, một lần nữa, cô lại thấy bản thân nghĩ đến thứ gì đó đáng kể mà cô có thể làm cho cha cô.

Tuần kế tiếp, tuần lễ thứ ba của tháng Chín, cô bắt đầu nhận thấy cha cô đang trở nên tệ hơn. Lúc này ông ngủ cho đến giữa buổi sáng, và lấy một giấc ngủ khác vào buổi chiều. Dù ông lấy những ngủ ngắn đều đặn, những giấc ngủ đã trở nên dài hơn, và ông lên giường sớm hơn vào buổi tối. Sau khi cô dọn dẹp bếp vì muốn có gì đó tốt hơn để làm, cô nhận ra, sau khi cộng tất cả lại, giờ đây ông ngủ nhiều hơn nửa ngày.
Chỉ trở nên tệ hơn sau đó. Với những ngày trôi qua, ông ngủ nhiều hơn một chút. Ông cũng không ăn đủ. Thay vì thế, ông di chuyển thức ăn của ông vòng quanh dĩa, và giả bộ ăn; khi cô loại bỏ thức ăn thừa vào thùng rác, cô nhận ra ông chỉ nhấm nháp. Lúc này ông mất trong lượng đều đặn, và mỗi khi cô chớp mắt, cô cảm nhận cha cô nhỏ hơn một chút. Đôi khi cô hoảng sợ với ý nghĩ rằng, ngày nào đó ông sẽ không còn lại chút nào nữa.

Tháng chín đến rồi đi. Vào những buổi sáng, hương vị mặn mòi của biển cả được giữ lại trên vịnh bởi những cơn gió từ rặng núi phía Đông của tiểu bang. Trời vẫn còn nóng, mùa cao điểm cho những trận cuồng phong, nhưng tuy vậy, bờ biển của North Carolina được miễn thứ.
Ngày hôm trước, cha cô ngủ mười bốn tiếng. Cô biết ông đã không thể kềm được, rằng thân thể của ông không cho ông lựa chọn nào, nhưng cô đau đớn với ý nghĩ rằng ông đã ngủ suốt phần lớn thời gian ít ỏi mà ông còn lại. Khi cha cô thức giấc, lúc này ông lặng lẽ hơn, hài lòng với việc đọc Kinh Thánh hoặc đi dạo chầm chậm với cô trong im lặng.
Thường xuyên hơn cô mong đợi, cô thấy mình nghĩ về Will. Cô vẫn mang chiếc vòng tay Macramé anh tặng cô, và khi cô vuốt những ngón tay qua sự đan kết phức tạp của nó, cô tự hỏi anh đang lấy những lớp học nào, anh đang đi dạo bên cạnh ai trên bãi cỏ xanh khi anh chuyển từ tòa nhà này đến tòa nhà kế tiếp. Cô muốn biết anh ngồi bên cạnh ai khi anh ăn trong quán cafeteria và liệu anh có bao giờ nghĩ về cô khi anh sẵn sàng cho cuộc hẹn hò vào một đêm thứ sáu hay thứ bảy nào đó. Hẳn là, cô nghĩ trong giây phút yếu lòng nhất, anh đã gặp gỡ một ai đó mới rồi.
“Con có muốn nói về điều đó không?” Cha cô hỏi vào một ngày, khi họ tản bộ dọc theo bờ biển. Họ đang trên đường đến nhà nguyện. Từ khi việc xây dựng bắt đầu trở lại, mọi thứ tiến triển rất nhanh. Đội ngũ nhân công khổng lồ : Những người đóng khung, thợ điện, những người chuyên về cắt gọt những rui kèo và tường khô. Có ít nhất bốn mươi chiếc xe trên công trường, và người ta ra vào tòa nhà liên tục.
“Về điều gì ạ?” Cô hỏi thận trọng.
“Về Will.” Ông nói. “Cách kết thúc giữa hai đứa con.”
Cô trao cho ông một cái nhìn đánh giá. “Làm sao cha có thể biết được điều đó?”
Ông nhún vai. “Vì con chỉ đề cập đến cậu ta một cách tình cờ trong vài tuần qua, và con không bao giờ nói chuyện với cậu ta qua điện thoại. Không khó để đoán được có điều gì đó đã xảy ra.”
“Nó khá phức tạp.” Cô nói miễn cưỡng.
Họ đi vài bước trong im lặng trước khi ông nói lần nữa. “Nếu như điều này quan trọng đối với con, Cha nghĩ cậu ta là một chàng trai trẻ hiếm có.”
Cô khoác cánh tay cô vào tay ông. “Vâng, nó quan trọng. Và con cũng nghĩ như thế.”
Vào lúc đó, họ đã đến nhà nguyện. Cô có thể thấy những nhân công đang mang nặng những thanh gỗ xẻ và những thùng sơn, và như thường lệ, mắt cô tìm kiếm chỗ trống bên dưới tháp chuông. Ô cửa sổ vẫn chưa được lắp đặt – phần lớn kết cấu phải được hoàn tất trước để ngăn những mảnh mong manh bị vỡ - nhưng cha cô vẫn thích viếng thăm. Ông hài lòng bởi việc xây dựng mới, nhưng cơ bản không phải vì ô cửa sổ. Ông nói liên miên về việc ngôi nhà nguyện quan trọng như thế nào đối với mục sư Harris, và mục sư đã nhớ những buổi thuyết giảng trong một nơi mà ông ấy coi như ngôi nhà thứ hai của ông ấy nhiều như thế nào.
Mục sư Harris luôn có mặt ở công trường, và thông thường ông sẽ đi xuống bãi biển để đón họ khi họ đến. Lúc này nhìn quanh, cô nhận ra ông đang đứng trên chỗ đậu xe rải sỏi. Ông đang nói chuyện với ai đó khi ông ra hiệu về tòa nhà một cách sôi nổi. Thậm chí từ một khoảng xa, cô có thể nói ông đang cười.
Cô định vẫy tay trong nỗ lực thu hút sự chú ý của ông khi cô đột ngột nhận ra người mà ông đang nói chuyện cùng. Cảnh tượng làm cô hoảng hốt. Lần cuối cùng cô gặp ông ấy, cô đang quẫn trí; lần cuối cùng họ ở cùng nhau, ông ấy không bận tâm nói lời tạm biệt. Chắc là Tom Blakelee chỉ đơn giản lái xe đến và dừng lại để nói chuyện với mục sư về việc tái kiến thiết ngôi nguyện đường. Có lẽ ông ấy chỉ thấy thích thú.
Trong phần còn lại của tuần, cô tìm kiếm Tom Blakelee khi họ ghé thăm công trường, nhưng cô không bao giờ còn gặp ông ấy ở đó nữa. Một phần trong cô thấy nhẹ nhõm, cô thú nhận, rằng thế giới của họ không còn giao nhau nữa.

***

Sau những chuyến đi dạo đến nhà nguyện và giấc ngủ chiều của cha cô, họ thường đọc cùng nhau. Cô đã đọc xong Anna Karenina, bốn tháng sau khi cô bắt đầu đọc nó lần đầu tiên. Cô mượn cuốn Bác Sĩ Zhivago từ thư viện công cộng. Thỉnh thoảng những nhà văn Nga hấp dẫn cô : chất hùng ca trong những câu truyện của họ, chắc vậy; những chuyện tình đau khổ và bi thảm được vẽ trên những bức tranh sơn dầu lớn, cho đến lúc này đã bị cắt bỏ khỏi cuộc đời riêng trước đây của cô.
Cha cô tiếp tục nghiên cứu Thánh Kinh của ông, và đôi khi ông đọc to một trích đoạn hoặc một câu thơ theo yêu cầu của cô. Một số câu ngắn và một số dài, nhưng phần lớn có vẻ tập trung vào ý nghĩa của niềm tin. Cô không chắc là tại sao, nhưng đôi khi cô nhận ra hành động đọc to chúng lên tỏa ra ánh sáng về một sắc thái hoặc mở ra một ý nghĩa mà ông đã bỏ lỡ trước đây.
Những bữa ăn tối trở thành việc đơn giản. Vào đầu tháng Mười, cô bắt đầu làm phần lớn việc nấu nướng, và ông chấp nhận điều thay đổi này dễ dàng như ông đã chấp nhận mọi thứ khác trong mùa hè. Phần lớn thời gian, ông ngồi trong bếp và họ nói chuyện khi cô luộc mì hoặc nấu cơm và rán vàng vài miếng thịt gà hay nướng thịt trong chảo. Đó là lần đầu tiên cô nấu món thịt trong nhiều năm, và cô cảm thấy kỳ lạ khi kích động cha cô ăn chúng sau khi đặt dĩa trước mặt ông. Ông không còn thấy đói nữa, và thức ăn thì nhạt nhẽo vì bất kỳ loại gia vị nào cũng sẽ gây kích ứng cho dạ dày ông. Nhưng cô biết ông cần thức ăn. Dù không có cái cân nào trong nhà, cô có thể thấy hàng pound trọng lượng của ông đã biến mất.
Một đêm sau bữa ăn tối, rốt cuộc cô cũng kể cho ông nghe về những gì đã xảy ra với Will. Cô kể với ông mọi thứ : về vụ hỏa hoạn và nỗ lực của anh trong việc che dấu cho Scott, về tất cả những thứ đã diễn ra với Marcus. Cha cô lắng nghe một cách chăm chú khi cô nói, và cuối cùng, khi ông đặt chiếc dĩa sang một bên, cô nhận ra ông ăn ít hơn một vài miếng.
“Cha có thể hỏi một câu không?”
“Dĩ nhiên rồi.” Cô nói. “Cha có thể hỏi bất kỳ điều gì.”
“Khi con nói với cha rằng con đã yêu Will, con thật có ý như thế chứ?”
Cô nhớ Megan đã hỏi cô câu hỏi tương tự. “Vâng.”
“Vậy cha nghĩ có lẽ con đã quá cứng rắn với cậu ta rồi.”
“Nhưng anh ấy đang bao che cho một sai phạm…”
“Cha biết. Nhưng nếu con nghĩ về điều đó, lúc này đây con cũng đang ở trong vị trí tương tự như cậu ta. Con biết sự thật, y như cậu ta. Và con cũng không nói với ai.”
“Nhưng con không làm điều đó…”
“Và con nói là cậu ta cũng không.”
“Cha đang cố nói điều gì vậy? Rằng con nên kể với mục sư Harris sao?”
Ông lắc đầu. “Không.” Ông nói trước sự ngạc nhiên của cô. “Cha không nghĩ con nên.”
“Tại sao?”
“Ronnie,” Ông nói dịu dàng. “Có lẽ câu chuyện còn có nhiều thứ hơn là chỉ nhìn bằng mắt.”
“Nhưng…”
“Cha không nói cha đúng. Cha sẽ thú nhận lần đầu tiên rằng cha đã sai lầm về nhiều thứ. Nhưng nếu mọi thứ đúng như con mô tả, thì cha muốn con biết điều này : Mục sư Harris không muốn biết sự thật đâu. Vì nếu ông biết, ông sẽ phải làm điều gì đó. Và hãy tin cha, ông ấy sẽ không bao giờ muốn làm tổn thương Scott hay gia đình cậu ta, đặc biệt khi đó chỉ là một tai nạn. Ông ấy không phải kiểu người đó. Và thêm một điều này nữa. Và với mọi thứ cha đã nói, điều này là quan trọng nhất.”
“Đó là điều gì?”
“Con cần học cách tha thứ.”
Cô khoanh tay lại. “Con đã tha thứ cho Will rồi. Con đã để lại cho anh ấy tin nhắn…”
Thậm chí trước khi cô kết thúc câu, cha cô đã lắc đầu. “Cha không nói về Will. Con cần học cách tha thứ cho bản thân trước.”

Đêm đó, dưới đáy chồng thư mà cha cô đã viết, Ronnie tìm thấy một bức thư khác, một bức thư cô chưa mở. Ông hẳn đã thêm nó vào chồng thư gần đây thôi, vì nó không có tem hoặc dấu bưu điện.
Cô không biết liệu ông muốn cô đọc nó bây giờ hay nó có nghĩa là cô sẽ đọc nó sau khi ông mất. Cô cho rằng cô có thể hỏi ông, nhưng cô đã không. Thật ra, cô không chắc cô muốn đọc; đơn giản là việc cầm chiếc phong bì làm cô sợ hãi, vì cô biết đó là bức thư cuối cùng ông viết cho cô.
Căn bệnh của ông tiếp tục tiến triển. Dù họ vẫn tuân theo công việc thường ngày của họ - ăn, đọc, và lấy những cuộc đi dạo xuống bãi biển – cha cô đang dùng nhiều thuốc hơn cho cơn đau của ông. Có những lần mắt ông đờ đẫn và mất tập trung, nhưng cô vẫn có cảm giác rằng liều thuốc không đủ mạnh. Đôi lúc cô thấy ông nhăn mặt khi ông ngồi đọc sách trên ghế sofa, ông nhắm mắt và khom người, gương mặt ông như một mặt nạ trong cơn đau. Khi điều đó xảy ra, ông ghì chặt bàn tay cô, nhưng khi từng ngày trôi qua, cô nhận ra cái siết tay của ông trở nên yếu dần. Sức mạnh của ông đã suy tàn, cô nghĩ; mọi thứ về ông đã suy tàn. Và chẳng bao lâu nữa ông sẽ hoàn toàn kiệt quệ.
Cô có thể nói mục sư Harris cũng nhận ra những thay đổi của cha cô. Ông đến gần như mỗi ngày trong những tuần lễ mới đây, thường ngay sau bữa tối. Trong phần lớn các lần, ông giữ cuộc trò chuyện nhẹ nhàng; ông cập nhật cho họ về tiến trình xây dựng hoặc thết đãi họ những câu chuyện tiêu khiển trong quá khứ của ông, mang đến một nụ cười thoáng qua trên gương mặt của cha cô. Nhưng có những lúc, cả hai người họ dường như thoát khỏi những điều đang nói cùng nhau. Né tránh nỗi đau đang nè nặng lên tất cả bọn họ, và trong khoảnh khắc đó, một làn sương mù của nỗi buồn trùm xuống phòng sinh hoạt chung.
Khi cô cảm nhận rằng họ muốn ở một mình, cô sẽ ra đứng ngoài hiên và cố hình dung những gì họ có thể nói đến. Cô có thể đoán, dĩ nhiên : Họ nói về niềm tin hoặc gia đình và có lẽ là vài nỗi hối tiếc mà mỗi người họ có, nhưng cô biết họ cũng cầu nguyện cùng nhau nữa. Cô đã nghe thấy họ một lần khi cô đi vào trong nhà để lấy một ly nước, và cô nhớ đã nghĩ rằng lời cầu nguyện của mục sư Harris nghe có vẻ như một lời khẩn cầu. Ông dường như đang nài xin có được sức mạnh như thể cuộc đời ông tùy thuộc vào đó, và khi cô lắng nghe ông, cô nhắm mắt để kết hợp trong lời cầu nguyện thầm lặng của riêng cô.
Giữa tháng Mười mang đến ba ngày thời tiết giá lạnh trái mùa, đủ lạnh để cần đến áo ấm vào buổi sáng. Sau nhiều tháng nóng nực không ngừng, cô thích thú với không gian mát mẻ, nhưng ba ngày đó lại khắc nghiệt với cha cô. Dù họ vẫn đi dạo trên bãi biển, ông di chuyển còn chậm hơn trước, và họ chỉ ngừng lại một lát bên ngoài nhà nguyện trước khi quay về nhà. Vào lúc họ đến cửa, cha cô rùng mình. Ngay khi vào bên trong, cô kéo ông vào phòng tắm nước nóng, hy vọng nó sẽ giúp được, cảm thấy nỗi hoảng loạn nhói buốt đầu tiên trước dấu hiệu mới của bệnh tật, báo hiệu bệnh tình của cha cô đang tiến triển nhanh hơn nhiều.
Vào Thứ sáu, một tuần trước lễ Halloween, cha cô đủ hồi phục để họ đi câu trên cầu tàu nhỏ mà trước đây Will đã đưa cô đến. Cảnh sát Pete cho họ mượn những chiếc cần câu dư và hộp dụng cụ. Đáng ngạc nhiên, cha cô chưa bao giờ đi câu trước đây, vì thế Ronnie mắc mồi vào lưỡi câu. Thoạt đầu hai con cá đã ăn mất mồi, nhưng cuối cùng họ có thể câu được một con cá hình trống nhỏ và đặt nó lên cầu tàu. Đó là loại cá tương tự cô đã câu được cùng Will, và khi con cá vùng vẫy trong lúc cô gỡ lưỡi câu, cô đột ngột thấy nhớ Will với cảm xúc mãnh liệt đến mức đau đớn.
Khi họ quay trở lại nhà sau buổi chiều thanh bình trên cầu tàu, có hai người đang đợi họ trên hiên. Mãi cho đến khi ra khỏi xe hơi cô mới nhận ra đó là Blaze và mẹ của cô ấy. Blaze nhìn khác đến kinh ngạc. Mái tóc được cột trong kiểu đuôi ngựa gọn gàng, cô mặc một chiếc quần sort trắng, và một chiếc áo màu xanh ngọc dài tay. Cô không mang nữ trang hoặc trang điểm.
Việc gặp lại Blaze nhắc Ronne về vài thứ cô đã xoay sở để tránh nghĩ đến trong tất cả mối quan tâm dành cho cha cô : rằng cô sẽ quay lại tòa trước cuối tháng. Cô băn khoăn không biết họ muốn gì và tại sao lại đến đây.
Cô mất một lúc để giúp cha cô ra khỏi xe, choàng cánh tay cô để giữ vững ông.
“Họ là ai thế?” Cha cô thì thầm.
Ronnie giải thích và ông gật đầu. Khi họ đến gần, Blaze bước xuống khỏi hiên.
“Chào, Ronnie.” Cô ấy nói, tằng hắng, nheo mắt nhẹ trước ánh nắng chiều. “Tớ đến để nói chuyện với cậu.”

Ronnie ngồi đối diện với Blaze trong phòng sinh hoạt chung, quan sát khi Blaze nghiên cứu sàn nhà. Cha mẹ của họ rút lui vào bếp cho họ đôi chút riêng tư.
“Tớ thật sự rất tiếc về cha bạn.” Blaze bắt đầu. “Ông ấy khỏe không?”
“Ông ấy ổn.” Ronnie nhún vai. “Bạn thế nào?”
Blaze chạm vào phía trước áo sơ mi của cô. “Tớ sẽ luôn có những vết sẹo ở đây,” Cô ấy nói, rồi ra dấu vào cánh tay và bụng, “Và ở đây.” Cô cười buồn. “Nhưng tớ may mắn là vẫn còn sống, thật đấy.” Cô bồn chồn trong chỗ ngồi của cô trước khi đón ánh mắt Ronnie. “Tớ muốn cám ơn bạn đã mang tớ đến bệnh viện.”
Ronnie gật đầu, vẫn không chắc cuộc trò chuyện sẽ dẫn đến đâu. “Không có chi.”
Trong yên lặng, Blaze nhìn quanh phòng sinh hoạt chung, không chắc chắn nên nói gì kế tiếp. Ronnie, học hỏi từ cha cô, chỉ đơn giản đợi.
“Tớ nên đến sớm hơn, nhưng tớ biết là bạn bận.”
“Điều đó ổn mà.” Ronnie nói. “Tớ cũng mừng thấy bạn không sao.”
Blaze ngước nhìn lên. “Thật ư?”
“Phải.” Ronnie nói. Cô mỉm cười. “Dù cho nhìn bạn y như một trái trứng phục sinh ấy.”
Balze tự tin hơn một chút. “Phải, tớ biết. Điên rồ, huh? Mẹ tớ đã mua cho tớ ít quần áo.”
“Nó hợp với bạn mà. Tớ đoán hai người đã có tiến triển tốt hơn.”
Blaze trao cho cô một ánh mắt thiểu não. “Tớ đang cố. Tớ lại đang sống ở nhà lần nữa, nhưng thật khó khăn. Tớ đã làm nhiều việc ngu ngốc. Với bà ấy, với người khác. Với bạn.”
Ronnie ngồi bất động, vẻ mặt cô không biểu hiện gì. “Thật ra, tại sao bạn đến đây, Blaze?”
Blaze xoắn đôi tay lại với nhau, để lộ tâm trạng bối rối. “Tớ đến để tạ lỗi. Tớ đã làm một điều khủng khiếp với cậu. Và tớ biết tớ không thể chuộc lại được những căng thẳng tớ đã gây ra cho cậu, nhưng tớ muốn cậu biết rằng tớ đã nói chuyện với DA (Công tố viên quận) sáng nay. Tớ kể với bà ấy rằng tớ đã đặt những món đồ vào trong túi của cậu vì tớ nổi điên với cậu, và tớ đã ký một bản xác nhận nói rằng cậu không biết gì về điều đã diễn ra. Cậu sẽ có một cuộc gọi vào hôm nay hoặc ngày mai, nhưng bà ấy đã hứa với tớ rằng bà ấy sẽ gỡ bỏ lời cáo buộc.”
Từ ngữ ùa đến nhanh tới nỗi thoạt đầu Ronnie không chắc là cô đã nghe đúng. Nhưng ánh mắt khẩn khoản của Blaze nói với cô mọi thứ cô cần biết. Sau tất cả những tháng này, sau tất cả những ngày và đêm lo lắng không thể đếm xuể, nó đột ngột kết thúc. Ronne thấy bàng hoàng.
“Tớ thật sự xin lỗi.” Blaze tiếp tục với giọng trầm trầm. “Tớ không nên đặt những thứ đó vào trong túi của cậu.”
Ronnie vẫn đang cố tiêu hóa sự việc rằng, sự thử thách giống như một cơn ác mộng này đã đến rồi đi. Cô nghiên cứu Blaze, lúc này đang tước đi tước lại sợi chỉ lỏng trên đường viền áo của cô ấy. “Điều gì sẽ xảy đến với bạn? Họ có kết tội bạn không?”
“Không.” Cô ấy nói. Lúc này cô ngước nhìn lên, hàm cô rắn lại. “Tớ có vài thông tin mà họ muốn về một tội ác khác. Một tội ác lớn hơn.”
“Ý bạn là về những gì đã xảy ra trên bến tàu ư?”
“Không.” Cô ấy nói, và Ronnie nghĩ cô trông thấy thứ gì đó cứng rắn và thách thức trong mắt cô. “Tớ đã kể với họ về vụ cháy nhà nguyện và cách nó thật sự bắt đầu.” Blaze muốn chắc cô ấy có sự chú ý của Ronnie trước khi tiếp tục. “Scott không bắt đầu ngọn lửa. Chai pháo hoa của cậu ấy không làm được điều đó. Oh, chắc chắn nó hạ cánh xuống gần nhà nguyện, nhưng nó ở bên ngoài.”
Ronnie hấp thu thông tin này trong sự kinh ngạc. Trong một lúc, họ nhìn nhau chằm chằm, sự tích điện trong không khí có thể sờ thấy được.
“Vậy nó đã bắt đầu như thế nào?”
Blaze nghiêng người tới trước và đặt khuỷu tay lên gối, cẳng tay cô vươn tới trước như một lời khẩn khoản. “Bọn tớ đang tiệc tùng trên bãi biển – Marcus, Lance, Teddy và tớ. Một lát sau, Scott xuất hiện, ngay dưới bãi biển gần bọn tớ. Chúng tôi làm bộ lờ nhau đi, nhưng bọn tớ thấy Scott thắp chai pháo hoa. Will vẫn còn ở dưới bãi biển, và Scott có phần nhắm vào hướng của cậu ấy, nhưng gió đã cuốn lấy nó về hướng nhà nguyện. Will bắt đầu mất hết hồn vía và chạy đến. Nhưng Marcus nghĩ toàn bộ điều đó thật vui nhộn, và lúc chai pháo hoa đó rơi xuống đàng sau nhà thờ, hắn đã chạy qua sân nhà nguyện. Thoạt đầu, tớ không biết điều gì đang xảy ra, ngay cả khi tớ đi theo hắn và thấy hắn đốt bụi cỏ cạnh tường nhà nguyện. Điều kế tiếp tớ biết là sườn tòa nhà đã bốc cháy.”
“Bạn nói Marcus đã làm điều đó ư?” Ronnie chỉ có thể vừa vặn thốt nên lời.
Cô ấy gật đầu. “Hắn cũng đã làm vài vụ cháy khác nữa. Ít nhất tớ khá chắc là hắn làm – hắn luôn thích lửa. Tớ nghĩ tớ luôn biết hắn điên khùng, nhưng tớ…” Cô ngừng bản thân lại, nhận ra rằng cô đã ngã xuống con đường đó quá nhiều lần. Cô ngồi thẳng người lên. “Dù sao đi nữa, tớ đã đồng ý làm chứng chống lại hắn.”
Ronnie dựa lưng vào ghế, cảm thấy như thể gió đã quật ngã cô. Cô nhớ đến những gì cô đã nói với Will, đột ngột nhận ra rằng, nếu như Will làm những gì cô yêu cầu, cuộc đời của Scott đã bị phá hủy chẳng vì điều gì.
Cô cảm thấy muốn bệnh khi Blaze tiếp tục. “Tớ thật sự rất tiếc về mọi thứ,” Cô ấy nói. “Và nghe có vẻ điên rồ, tớ đã xem cậu như bạn tớ cho đến khi tớ trở thành kẻ ngốc và phá hủy chúng.” Lần đầu tiên, giọng của Blaze vụn vỡ. “Nhưng cậu là một người tốt, Ronnie. Cậu chân thật, và cậu đã tử tế với tớ khi chẳng có lý do gì để cậu làm thế.” Một giọt nước mắt rỉ ra trên mắt cô, và cô chùi nó thật nhanh. “Tớ sẽ không bao giờ quên ngày cậu đề nghị tớ đến ở với cậu, thậm chí sau điều khủng khiếp tớ đã làm với cậu. Tớ cảm thấy quá đỗi… hổ thẹn. Và tuy vậy, tớ rất biết ơn, cậu biết không? Rằng có ai đó vẫn còn quan tâm đến tớ.”
Blaze ngừng lại, rõ ràng đang đấu tranh để tự chủ. Khi cô chớp mắt để xua đi những giọt lệ, cô lấy một hơi thở sâu và tập trung vào Ronnie với một vẻ quyết tâm.
“Vì vậy, nếu bạn cần bất kỳ điều gì – và ý tớ là bấy kỳ điều gì – hãy cho tớ biết. Tớ sẽ làm mọi thứ, được không? Tớ biết là tớ không thể đền bù cho những gì tớ đã làm với cậu, nhưng bằng cách nào đó, tớ cảm thấy giống như cậu đã cứu tớ. Những gì xảy ra với cha cậu hết sức không công bằng… và tớ sẽ làm bất cứ điều gì để giúp cậu.”
Ronnie gật đầu.
“Một điều cuối cùng.” Blaze thêm. “Chúng ta không là bạn bè, nhưng nếu cậu gặp tớ lần nữa, vui lòng gọi tớ là Galadriel nhé? Tớ không giữ tên Blaze nữa.”
Ronnie cười. “Chắc chắn rồi. Galadriel.”

Như Blaze đã hứa, chiều hôm đó luật sư của cô đã gọi, cho cô biết cáo buộc về tội danh ăn cắp trong cửa hàng của cô đã được tháo bỏ.
Đêm đó, khi cha cô ngủ trong phòng, Ronnie mở đài tuyền hình địa phương. Cô không chắc tin tức có bao gồm việc đó không, nhưng nó có, đoạn ba mươi hai, ngay trước bản tin thời tiết về “Bắt giữ một kẻ tình nghi mới trong điều tra về sự đốt phá đang diễn ra, liên quan đến một nhà thờ địa phương bị thiêu hủy năm ngoái.” Khi họ lộ ra ảnh chụp của Marcus cùng vài chi tiết về cáo buộc hạnh kiểm xấu xa trước đây của hắn, cô tắt TV. Ánh mắt lạnh lẽo, chết chóc đó vẫn còn có sức mạnh làm nhụt đi nhuệ khí của cô.
Cô nghĩ về Will và những gì anh đã làm để bảo vệ Scott, đối với tội lỗi mà hóa ra cậu ta thậm chí còn không vi phạm. Thật sự có đáng sợ đến thế, cô tự hỏi, rằng lòng chung thủy với bạn bè đã bóp méo lương tri của anh? Đặc biệt trong sự sáng tỏ theo cách mà mọi thứ đã trở thành? Ronnie không còn chắc chắn về bất kỳ điều gì nữa. Cô đã sai về quá nhiều thứ : Cha cô, Blaze, mẹ cô, Thậm chí Will. Cuộc sống phức tạp hơn những gì cô từng hình dung khi là một thiếu nữ ủ rũ ở New York.
Cô lắc đầu khi cô đi vòng quanh ngôi nhà, trở nên sáng tỏ từng điều một. Cuộc sống đó – một chuỗi những buổi tiệc tùng, những chuyền tầm phào trong trường trung học và những lần cãi cọ vặt vãnh với mẹ cô – giống như một thế giới khác, một cuộc sống cô chỉ có trong mơ. Hôm nay, chỉ có một thứ duy nhất : Cuộc đi dạo trên bãi biển với cha cô, âm thanh không ngừng nghỉ của sóng biển, hương vị của mùa đông đang đến gần.
Và cây trái của Chúa Thánh Thần : Tình Yêu, Niềm Vui, Hòa Bình, Kiên Nhẫn, Ân Cần, Lòng Tốt, Thủy Chung, Hiền lành, và Tự Chủ.


Halloween đến rồi đi, và cha cô yếu hơn với mỗi ngày trôi qua.
Họ đã từ bỏ những cuộc đi dạo trên bờ biển khi nỗ lực trở nên quá lớn, và trong những buổi sáng, khi cô dọn giường cho ông, cô thấy vô số những lọn tóc trên gối. Biết rằng căn bệnh đã diễn tiến nhanh hơn, cô chuyển nệm của cô vào phòng ông để phòng khi ông cần cô giúp, và cũng để tiếp tục gần gũi ông khi cô còn có thể.
Ông đã dùng những liều thuốc giảm đau cao nhất mà cơ thể ông có thể chịu đựng, nhưng dường như không bao giờ đủ. Vào ban đêm, khi cô ngủ trên sàn bên cạnh ông, ông buột ra những tiếng rên rỉ gần như làm tan vỡ trái tim cô. Cô giữ thuốc của ông ngay bên cạnh giường, và chúng là thứ đầu tiên ông vươn tới khi ông thức dậy. Cô sẽ ngồi bên cạnh ông trong những buổi sáng, ôm chặt ông, tay chân ông run rẩy cho đến khi thuốc có hiệu lực.
Mặt hiệu quả của thuốc cũng gây thiệt hại. Ông không còn tự chủ được trên đôi chân, và Ronnie phải đỡ ông bất cứ khi nào ông di chuyển, dù chỉ đi ngang qua phòng. Bất chấp trọng lượng đã bị mất, mỗi khi ông sẩy chân thì đó là tất cả những gì Ronnie có thể làm để giữ ông khỏi ngã. Dù ông không bao giờ thốt ra một lời nào về tình trạng chán nản, đôi mắt ông đã bộc lộ nỗi thất vọng của ông, như thể ông đã lơ là cô.
Bây giờ, trung bình ông ngủ mười bảy tiếng một ngày, và Ronne gần như trải qua toàn bộ ngày một mình ở nhà, đọc đi đọc lại những lá thư ông đã viết cho cô. Cô vẫn chưa mở bức thư cuối cùng – ý nghĩ đó dường như vẫn còn quá đáng sợ - nhưng thỉnh thoảng cô muốn giữ nó trong những ngón tay, cố tập trung sức mạnh để mở nó.
Cô gọi điện về nhà thường xuyên hơn, chọn thời điểm khi Jonah từ trường về nhà, hoặc sau khi họ dùng xong bữa tối. Jonah dường như đã bị khuất phục, và khi cậu bé hỏi về cha họ, đôi khi cô có cảm giác tội lỗi vì đã che dấu sự thật. Nhưng cô không thể chất gánh nặng lên vai cậu bé theo cách đó, và cô đã nhận ra rằng, bất cứ khi nào cha cô nói chuyện với cậu bé, ông luôn làm điều tốt nhất ông có thể để nghe có vẻ mạnh mẽ. Sau đó, ông thường ngồi vào chiếc ghế bên cạnh máy điện thoại, làm dịu đi sự gắng sức của ông, thậm chí quá mệt để di chuyển được. Cô chỉ nhìn ông trong yên lặng, giận dữ với nhận thức rằng phải có thứ gì đó nhiều hơn để cô có thể làm cho ông, nếu cô biết đó là gì.

“Màu ưa thích của cha là gì?” Cô hỏi.
Họ ngồi bên bàn bếp, và Ronnie có một tập giấy mở trước mặt cô.
Steve trao cho cô một nụ cười diễu cợt. “Đó là những gì con muốn hỏi cha sao?”
“Đây chỉ mới là câu đầu tiên thôi. Con có khá nhiều.”
Ông với lấy hộp sữa ensure cô đặt trước mặt ông. Ông đã không còn ăn thức ăn đặc nữa, và cô nhìn ông uống một hớp, biết rằng ông làm điều đó để vui lòng cô, không phải vì ông đói.
“Xanh lá.” Ông trả lời.
Cô viết câu trả lời xuống, và đọc câu kế tiếp. “Cha bao nhiêu tuổi khi lần đầu tiên hôn một cô gái.”
“Con nghiêm túc đấy chứ?” Ông nhăn mặt.
“Làm ơn đi mà, Cha.” Cô nói. “Điều đó quan trọng.”
Ông trả lời và cô viết nó xuống. Họ đã trải qua một phần tư câu hỏi mà cô đã ghi nhanh, và trong tuần kế tiếp, cuối cùng ông đã trả lời hết tất cả. Cô viết những câu trả lời một cách cẩn thận, không nhất thiết đúng nguyên văn, nhưng cô hy vọng đủ chi tiết để khôi phục những câu trả lời trong tương lai. Chúng là sự cộng tác và thỉnh thoảng là những bài tập đột ngột, nhưng lúc kết thúc, cô kết luận rằng cha cô phần lớn là người đàn ông tương tự mà cô đã thân thuộc trong mùa hè.
Những điều tốt và xấu, dĩ nhiên. Tốt là vì cô đã nghi ngờ ông sẽ là, và xấu là vì nó để lại cô không gần hơn với câu trả lời mà cô đã tìm kiếm suốt từ lúc đầu.


Tuần lễ thứ hai của tháng Mười Một mang lại những trận mưa đầu của mùa thu, nhưng việc xây dựng ngôi nhà nguyện vân tiếp tục không ngừng lại. Bất chấp mọi thứ, nhịp độ công việc tăng lên. Cha cô đã không còn đi cùng cô nữa, tuy vậy, Ronnie vẫn đi dạo xuống bãi biển mỗi ngày để xem mọi thứ tiến triển như thế nào. Nó đã trở thành một phần trong công việc hàng ngày của cô trong suốt những giờ yên ắng khi cha cô ngủ. Dù mục sư Harris luôn nhận thấy cô đến với mọt cái vẫy tay, ông không còn kết hợp với cô trên bãi biển để chuyện trò nữa.
Trong một tuần, ô cửa sổ kính màu sẽ được lắp đặt, và mục sư Harris sẽ biết ông đã làm một thứ cho cha cô mà không ai khác có thể làm được, thứ cô biết sẽ có ý nghĩa là cả thế giới đối với ông. Cô hạnh phúc cho ông, ngay cả khi cô cầu nguyện về lời khuyên cho riêng cô.

Vào một ngày tháng Mười Một ảm đạm, cha cô đột ngột khăng khăng đòi họ thám hiểm bến tàu. Ronnie đã lo lắng về khoảng cách và sự lạnh lẽo, nhưng ông cương quyết. Ông muốn nhìn ngắm biển từ bến tàu, ông nói. Một lần cuối cùng, là những từ ông không nói ra.
Họ mặc áo khoác và Ronnie còn quàng thêm khăn quanh cổ cho cha cô. Gió mang đến hương vị sắc nhọn đầu tiên của mùa đông, khiến nó có cảm giác lạnh hơn nhiệt kế chỉ thị. Cô khăng khăng lái xe đến tận bến tàu và đậu chiếc xe của mục sư Harris trên lối đi bộ vắng người.
Mất một lúc lâu để đến cuối bến tàu. Họ đơn độc bên dưới một bầu trời vần vũ mây, những con sóng màu xám thép vỗ về giữa những trụ bê tông. Khi họ lê bước tiến lên, cha cô giữ cho cánh tay ông móc vào của cô, níu chặt lấy cô mỗi khi cơn gió giật mạnh áo khoác của họ.
Cuối cùng, khi họ đến nơi, cha cô với tay đến thành lan can và gần như mất thăng bằng. Trong ánh sáng như dát bạc, đường nét của đôi gò má hốc hác nổi bật lên sắc sảo và đôi mắt ông nhìn có vẻ hơi đờ đẫn, nhưng cô có thể nói ông hài lòng.
Sự chuyển động nhịp nhàng của sóng biển, trải dài trước mặt ông đến tận đường chân trời, dường như mang đến cho ông cảm giác của sự thanh bình. Không có gì để nhìn ngắm – không tàu thuyền, không cá heo, không người lướt sóng – nhưng vẻ mặt ông đầy vẻ bình an và thoát khỏi cơn đau lần đầu tiên trong nhiều tuần. Gần mép nước, những đám mây gần như có sức sống, khuấy động và di chuyển như thể vầng dương mùa đông đang nỗ lực để chọc thủng khối mây che phủ chúng. Cô tìm thấy bản thân đang quan sát sự vận động của những đám mây với sự sửng sốt tương tự như cha cô,  tự hỏi không biết những ý nghĩ của ông đang trôi dạt về đâu.
Gió đã thổi mạnh, và cô thấy ông rùng mình. Cô có thể nói ông muốn ở lại, ánh mắt ông khóa chặt vào đường chân trời. Cô kéo nhẹ tay ông, nhưng ông túm chặt hơn vào thành lan can.
Sau đó cô mủi lòng, đứng cạnh ông cho đến khi ông run lên vì lạnh, cuối cùng cũng đã sẵn sàng để đi. Ông buông thành lan can và để cô xoay ông lại, bắt đầu nhịp bước chầm chậm trở về xe. Từ góc mắt, cô nhận ra ông đang cười.
“Nó thật tuyệt, đúng không?” cô nhận xét.
Cha cô bước vài bước trước khi trả lời.
“Phải.” Ông nói. “Nhưng phần lớn vì cha thích chia sẻ khoảnh khắc này với con.”

Hai ngày sau, cô quyết tâm đọc bức thư cuối cùng. Cô sẽ làm việc đó trước khi ông ra đi. Không phải đêm nay, nhưng sớm thôi, cô tự hứa. Trời đã khuya, và là thời gian khó khăn nhất với cha cô. Thuốc dường như không giúp ông được chút nào nữa. Những giọt lệ rỉ ra trên khóe mắt ông khi cơn đau hành hạ thân xác ông; cô đã nài nỉ để cô đưa ông đến bệnh viện, nhưng ông vẫn từ chối.
“Không.” Ông hổn hển. “Chưa đâu.”
“Khi nào?” Cô hỏi một cách tuyệt vọng, rất gần với những giọt nước mắt của chính mình. Ông không trả lời, chỉ điều hòa nhịp thở, đợi cho cơn đau qua đi. Khi nó đã qua, ông đột ngột có vẻ yếu hơn, như thể nó đã lấy đi thêm một mảnh cuộc sống nhỏ nhoi mà ông còn lại.
“Cha muốn con làm một thứ cho cha.” Ông nói. Giọng ông là một lời thì thầm rời rạc.
Cô hôn lên lưng bàn tay ông. “Bất kỳ điều gì.” Cô nói.
“Lần đầu tiên khi cha tiếp nhận lời chẩn đoán bệnh của cha, cha đã ký vào một bản DNR (Do Not Resusciate : không làm hồi sức) Con có biết điều đó nghĩa là gì không?” Ông vươn tới mặt cô. “Nó có nghĩa là cha không muốn bất kỳ điều trị đặc biệt nào để giữ cha sống sót. Ý cha là, nếu cha phải đến bênh viện.”
Cô cảm thấy dạ dày cô xoắn vặn trong sợ hãi. “Cha đang cố nói điều gì vậy?”
“Khi đến lúc, con phải để cha đi.”
“Không.” Cô bắt đầu lắc đầu. “Đừng nói như thế.”
Ánh mắt ông dịu dàng nhưng kiên quyết. “Làm ơn đi.” Ông thì thầm. “Đó là những gì cha muốn. Khi cha đến bệnh viện, hãy mang giấy tờ theo. Chúng ở trong ngăn kéo bàn giấy trên cùng , trong một phong bì làm bằng giấy manila.”
“Không… Cha ơi, làm ơn đi.” Cô khóc. “Đừng bắt con làm điều đó. Con không thể làm điều đó đâu.”
Ông giữ ánh mắt cô. “Ngay cả vì cha sao?”
Đêm đó, tiếng rên rỉ của ông vỡ vụn trong hơi thở nhanh và nặng nhọc đến mức làm cô hoảng sợ. Dù cô đã hứa sẽ làm những gì ông yêu cầu, cô vẫn không chắc là cô có thể.
Làm sao cô có thể nói các bác sĩ đừng làm gì hết? Làm sao cô có thể để mặc ông chết?


Vào ngày thứ Hai, mục sư Harris đón và chở họ đến nhà nguyện để quan sát chiếc cửa sổ được lắp dựng. Vì ông đã quá yếu để đứng, nên họ mang theo một chiếc ghế vải. Mục sư Harris giúp cô đỡ ông khi họ chầm chậm tiến về bãi biển. Một đám đông đã tụ tập trước hoạt động của sự kiện, và trong vài giờ sau đó, họ quan sát những nhân công cẩn thận đặt ô cửa sổ vào đúng vị trí. Thật là cảnh ngoạn mục như cô đã hình dung, và khi thanh giằng cuối cùng đã được bắt vít, tiếng hoan hô nổ tung. Cô quay người để nhìn phản ứng của cha cô và nhận ra ông đã rơi vào giấc ngủ, thoát ra khỏi tình trạng căng thẳng, trong tấm mền dày mà cô đã đắp cho ông.
Với sự giúp đỡ của mục sư Harris cô đưa ông về nhà và đặt ông lên giường. Trên đường ra cửa, vị mục sư quay nhìn cô.
“Cậu ấy đã hạnh phúc.” Ông nói, để thuyết phục bản thân ông nhiều hơn là cô.
“Con biết ông ấy đã.” Cô cam đoan với ông, vươn tay siết chặt cánh tay ông. “Đó chính xác là những gì cha con đã muốn.”
Cha cô ngủ suốt phần còn lại của ngày, và khi thế giới tối sẫm bên ngoài cửa sổ, cô biết đã đến lúc đọc bức thư. Nếu cô không làm bây giờ, có thể cô sẽ không bao giờ tìm được can đảm để làm.
Ánh sáng trong gian bếp tối lờ mờ. Sau khi xé bì thư, cô chầm chậm mở trang giấy. Giòng chữ viết tay rất khác so với những bức thư trước; mất đi tính trôi chảy, bộc lộ kiểu cô mong đợi. Trong thư là những dòng chữ giống như sự nguệch ngoạc. Cô không muốn hình dung cảnh ông vật lộn ra sao hay ông đã phải tốn thời gian nhiều như thế nào để viết những dòng chữ này. Cô hít một hơi thở sâu và bắt đầu đọc.

Chào, con yêu,
Cha tự hào về con.
Cha đã không nói với con câu đó thường xuyên như cha nên làm. Giờ đây cha nói chúng, không phải vì con chọn ở lại với cha suốt thời gian khó khăn đến không ngờ này, mà vì cha muốn con biết rằng, con là người vượt trội mà cha đã luôn mơ con sẽ trở thành.
Cám ơn con vì đã ở lại. Cha biết điều đó thật khó cho con, chắc chắn còn khó hơn con có thể hình dung, và cha xin lỗi về những giờ con sẽ phải ở một mình. Nhưng cha đặc biệt xin lỗi vì cha đã không luôn là người cha mà con cần cha trở thành. Cha biết cha đã tạo ra nhiều sai lầm. Cha ước chi cha có thể thay đổi nhiều thứ trong cuộc đời cha. Cha nghĩ điều đó là bình thường xét đến những gì đã xảy ra với cha, nhưng có vài điều khác cha muốn con biết.
Thật khó khăn như cuộc đời có thể trở nên và bất chấp những hối tiếc của cha, có những giây phút cha cảm thấy được ban ân sủng thật sự. Cha đã cảm thấy như thế khi con được sinh ra, và khi cha đưa con đến vườn thú khi con còn nhỏ và quan sát con nhìn chằm chằm vào con hươu cao cổ trong sự ngạc nhiên. Thông thường, những khoảnh khắc đó không kéo dài; chúng đến rồi đi như những ngọn gió biển. Nhưng thỉnh thoảng chúng kéo dài mãi mãi.
Đó là những gì mùa hè đã mang đến, và không chỉ vì con đã tha thứ cho cha. Mùa hè là một món quà với cha, và cha đã được biết người phụ nữ trẻ mà cha luôn biết con sẽ trở thành. Như cha đã nói với em trai con, đó là mùa hè tuyệt nhất trong cuộc đời cha, và cha thường tự hỏi trong suốt những ngày bình dị ấy, làm sao một người như cha có thể được ban ân phước có một người con gái tuyệt vời như con.
Cám ơn con, Ronnie. Cám ơn con vì đã đến. Và cám ơn con về những gì con khiến cha cảm thấy mỗi ngày và mọi ngày chúng ta có cơ hội ở bên nhau.
Con và Jonah luôn là ân sủng tuyệt nhất trong cuộc đời cha. Cha yêu con, Ronnie, Và cha sẽ luôn yêu con. Và đừng bao giờ, không bao giờ quên rằng cha đã và luôn tự hào về con. Không người cha nào được ban ân phước như cha đã có.
Cha.

Lễ Thanksgiving đã trôi qua. Dọc theo bờ biển,người ta đã bắt đầu lắp đồ trang trí lễ Giáng Sinh.
Cha cô đã mất đi một phần ba trọng lượng cơ thể và trải qua gần như toàn bộ thời gian trên giường.
Ronnie vấp vào một mẩu giấy khi cô dọn dẹp nhà cửa vào một buổi sáng. Chúng bị nhét một cách cẩu thả vào ngăn kéo bàn café, và khi cô kéo chúng ra, mất một lúc để cô nhận ra bàn tay của cha cô trong những nốt nhạc được viết nguệch ngoạc trên trang giấy.
Đó là bản nhạc mà ông đang viết, bản nhạc mà cô đã nghe thấy ông chơi đêm hôm đó trong ngôi nhà nguyện. Cô đặt tập giấy trên mặt bàn café để xem xét chúng kỹ lưỡng hơn. Ánh mắt cô chạy đua qua hàng loạt những nốt nhạc được chỉnh sửa vụng về, và một lần nữa cô nghĩ cha cô đã nắm bắt được điều gì đó. Khi cô đọc, cô có thể nghe được nhạc điệu lôi cuốn của những thang âm mở ra trong đầu cô. Nhưng khi cô lật bản tổng phổ đến trang hai và trang ba, cô có thể thấy rằng có gì đó chưa hoàn toàn đúng. Mặc dù bản năng ban đầu của ông tốt, cô nghĩ cô đã nhận ra chỗ tác phẩm đã lạc khỏi đường của chúng. Cô lấy một cây viết chì từ hộc bàn và bắt đầu phủ việc làm của chính cô trên của ông, lướt qua những chuỗi hợp âm nhanh và những nhạc khúc du dương nơi cha cô đã dừng lại.
Trước khi cô biết, ba giờ đã trôi qua, và cô nghe thấy cha cô bắt đầu chuyển động. Sau khi nhét những trang giấy vào hộc bàn, cô đến phòng ngủ, sẵn sàng đối mặt với bất kỳ điều gì ngày mới sẽ mang đến.
Tối hôm sau, khi cha cô rơi vào một giấc ngủ chập chờn khác, cô tìm lại những trang giấy, lần này làm việc kéo dài quá nửa đêm. Vào buổi sáng, cô thức dậy, háo hức và nôn nóng chỉ cho ông thấy những gì cô đã làm. Nhưng khi cô đi vào phòng, ông không hề động đậy, và cô hoảng sợ khi nhận ra ông chỉ còn thoi thóp thở.
Dạ dày cô thắt nút khi cô gọi xe cứu thương, và cô cảm thấy loạng choạng khi cô đi trở về phòng. Cô chưa sẵn sàng, cô tự nhủ, cô chưa cho ông thấy bản nhạc. Cô cần một ngày nữa. Chưa phải là lúc này. Nhưng với bàn tay run rẩy, cô mở ngăn kéo bàn làm việc của ông và lấy ra chiếc phong bì làm bằng giấy manila.


Trong chiếc giường bệnh viện, cha cô trông nhỏ bé hơn cô từng nhìn thấy ông. Gương mặt ông hốc hác và làn da ông tái nhợt một màu xám phi tự nhiên. Hơi thở của ông cạn và nhanh như của trẻ sơ sinh. Cô khép chặt mắt, ao ước cô không ở đây. Ao ước cô ở bất kỳ đâu trừ ở đây.
“Chưa đâu, Cha.” Cô thì thầm. “Chỉ thêm chút thời gian nữa thôi, được không?”
Bên ngoài cửa sổ bệnh viện, bầu trời xám xịt và đầy mây. Phần lớn những chiếc lá đã rời khỏi cây, không hiểu sao những nhánh cây ảm đạm và trơ cành gợi cô nghĩ đến những bộ xương khô. Không khí lạnh, và tuy vậy, báo hiệu một cơn bão.
Chiếc phong bì đặt trên chiếc bàn đầu giường, và dù cô đã hứa với cha cô sẽ trao nó cho bác sĩ, cô vẫn chưa làm. Không, cho đến khi cô chắc chắn ông không tỉnh nữa; không, cho đến khi cô chắc chắn cô không bao giờ còn cơ hội nói lời chia tay. Không, cho đến khi cô chắc chắn không có điều gì hơn nữa cô có thể làm cho ông.
Cô cầu xin dữ dội cho một phép lạ, một phép lạ nhỏ nhoi. Và như thể chính Thiên Chúa đang lắng nghe, nó xảy ra hai mươi phút sau đó.
Cô đã ngồi bên cha trong phần lớn buổi sáng, cô đã trở nên quen thuộc với tiếng thở của ông và tiếng bíp bíp đều đặn của màn hình theo dõi nhịp tim, đến mức một thay đổi nhẹ nhất cũng nghe như một tiếng chuông báo hiệu. Nhìn lên, cô thấy cánh tay cha cô giật giật và mắt ông chuyển động. Ông chớp mắt dưới ánh đèn huỳnh quang, và theo bản năng, Ronnie vươn tới tay ông.
“Cha?” Cô nói. Bất chấp bản thân, cô cảm thấy trào dâng hy vọng; cô tưởng tượng ông từ từ ngồi dậy.
Nhưng ông đã không. Thậm chí ông có vẻ còn không nghe thấy cô. Khi ông xoay đầu với một nỗ lực to lớn để nhìn vào cô, cô nhìn thấy sự vô hồn trong đôi mắt ông mà cô chưa bao giờ thấy trước đây. Nhưng rồi ông chớp mắt và cô nghe ông thở dài.
“Chào, con yêu.” Ông thì thầm bằng giọng khàn khàn
Dịch trong phổi ông khiến giọng ông nghe như thể bị chìm trong nước. Cô ép buộc bản thân mỉm cười. “Cha thế nào rồi?”
“Không tốt lắm.” Ông ngừng lại, như thể để tập hợp sức mạnh. “Cha đang ở đâu?”
“Cha ở trong bệnh viện. Con đã đưa cha đến đây sáng nay. Con biết cha có DNR, nhưng…”
Khi ông chớp mắt lần nữa, cô nghĩ đôi mắt ông có thể lại đóng lại. Nhưng cuối cùng, ông mở chúng ra.
“Không sao đâu.” Ông thì thào. Sự khoan dung trong giọng nói của ông xé nát tim cô. “Cha hiểu mà.”
“Làm ơn đừng giận con.”
“Không đâu.”
Cô hôn trên má ông và cố quấn tay quanh hình dáng hao gầy của ông. Cô cảm thấy bàn tay ông lướt qua lưng cô.
“Con có… ổn không?” Ông hỏi cô.
“Không.” Cô thú nhận, cảm thấy nước mắt bắt đầu tuôn trào. “Con không ổn chút nào.”
“Cha xin lỗi.” Ông thở.
“Không, đừng nói như thế.” Cô nói, mong mỏi bản thân không suy sụp. “Con mới là người phải xin lỗi. Con không bao giờ nên ngừng nói chuyện với cha. Con muốn đến tuyệt vọng để lấy lại những năm tháng đó.”
Ông trao một nụ cười mụ mẫm, “Cha đã bao giờ nói với con rằng cha nghĩ con thật xinh đẹp không?”
“Có.” Cô nói, sụt sịt. “Cha đã nói với con.”
“Tốt, lần này cha có ý như thế.”
Cô cười không thể kềm chế qua màn nước mắt. “Cám ơn.” Cô nói. Nghiêng người, cô hôn lên bàn tay ông.
“Con có nhớ khi con còn nhỏ không?” Ông hỏi, đột ngột nghiêm nghị. “Con thường quan sát cha chơi đàn hàng giờ. Một ngày, cha thấy con ngồi bên bàn phím và đang chơi giai điệu mà con đã nghe cha chơi. Con chỉ mới bốn tuổi thôi. Con luôn là một tài năng.”
“Con nhớ.” Cô nói.
“Cha muốn con biết vài thứ.” Cha cô nói, túm lấy tay cô với một sức mạnh đáng kinh ngạc. “Không quan trọng con có trở thành ngôi sao sáng như thế nào, cha chưa bao giờ quan tâm đến âm nhạc nhiều bằng một nửa cha quan tâm con là con gái của cha… Cha muốn con biết điều đó.”
Cô gật đầu. “Con tin cha. Và con cũng yêu cha. Cha ơi.”
Ông lấy một hơi thở sâu, mắt ông không rời khỏi cô. “Vậy con sẽ mang cha về nhà chứ?”
Từ ngữ đánh vào cô với đầy đủ sức mạnh, không né tránh và trực diện. Cô liếc vào chiếc phong bì, hiểu những gì ông yêu cầu và những gì ông cần cô nói. Và trong giây phút đó, cô nhớ mọi thứ về những tháng vừa qua. Những hình ảnh chạy đua trong trí óc cô, cái này tiếp theo sau cái kia, ngừng ngay hình ảnh ông đang ngồi bên phím đàn trong nhà thờ, bên dưới vị trí trống rỗng nơi ô cửa sổ cuối cùng sẽ lắp đặt.
Và đó là lúc cô biết những gì trái tim cô đã mách bảo cô làm suốt từ đầu.
“Vâng.” Cô nói. “Con sẽ đưa cha về nhà. Nhưng con cũng cần cha làm vài thứ cho con.”
Cha cô nuốt khan. Dường như phải lấy toàn bộ sức mạnh để ông có thể nói. “Cha không chắc cha có thể làm được gì nữa.”
Cô cười và với lấy chiếc phong bì. “Ngay cả vì con sao?”
Mục sư Harris cho cô mượn xe, và cô lái nhanh nhất cô có thể. Giữ điện thoại, cô lấy một cuộc gọi khi đổi làn xe. Cô giải thích nhanh về điều đang xảy ra và những gì cô cần; Galadriel đồng ý ngay lập tức. Cô lái xe như thể mạng sống của cha cô tùy thuộc vào đó, tăng tốc với mọi tín hiệu đèn giao thông vàng.
Galadriel đang đợi cô tại nhà khi cô đến. Bên cạnh cô ấy, nằm trên hiên là hai cây xà beng, thứ cô nâng lên khi Ronnie tiến lại gần.
“Sẵn sàng chứ?” Cô ấy hỏi.
Ronnie khẽ gật đầu, và cùng nhau, họ tiến vào ngôi nhà.
Với sự giúp đỡ của Galadriel, mất ít hơn một giờ để tháo dỡ những gì cha cô đã làm. Cô không quan tâm tình trạng hỗn độn mà họ để lại trong phòng sinh hoạt chung; điều duy nhất cô có thể nghĩ là thời gian cha cô còn lại và những gì cô cần làm cho ông. Khi mảnh ván cuối cùng bị tháo ra, Galadriel quay nhìn cô, đẫm mồ hôi và nín thở.
“Đi đón cha cậu đi, tớ sẽ dọn dẹp. Và tớ sẽ giúp cậu đưa ông ấy vào bên trong khi cậu trở lại.”
Cô lái xe thậm chí còn nhanh hơn trên đường đến bệnh viện. Trước khi cô rời khỏi bệnh viện cô đã gặp bác sĩ của cha cô và giải thích những gì cô định làm. Với sự giúp đỡ của các y tá chăm sóc, cô đã chạy đua qua thủ tục xuất viện mà bệnh viện đòi hỏi; khi cô gọi đến bệnh viện từ xe hơi, cô liên lạc với cùng một y tá và yêu cầu bà đưa cha cô xuống tầng dưới đợi cô trong một chiếc xe lăn.
Vỏ xe rít lên khi cô quành vào chỗ đậu xe của bệnh viện. Cô đi theo làn xe thẳng đến lối vào của phòng cấp cứu và ngay lập tức thấy rằng người y tá đã làm tốt công việc của bà.
Ronnie và người y tá giúp cha cô vào trong xe hơi, và cô trở lại đường lộ trong vài phút. Cha cô có vẻ tỉnh táo hơn khi ông còn ở trong phòng bệnh, nhưng cô biết điều đó có thể thay đổi bất kỳ lúc nào. Cô cần đưa cha cô về nhà trước khi quá trễ. Khi cô lái xe trên những con đường của thị trấn, cuối cùng, cô nghĩ về chính mình, cô cảm thấy một sự xô đẩy của nỗi sợ hãi và niềm hy vọng. Lúc này đây, mọi thứ quá đỗi đơn giản, quá đỗi rõ ràng. Khi cô đến nhà, Galadriel đang đợi cô. Galadriel đã chuyển chiếc ghế dài vào đúng chỗ, và cùng nhau, họ giúp cha cô ngồi tựa vào đó.
Bất chấp tình trạng của ông, dường như mọi thứ Ronnie đã làm trở nên rõ ràng với ông. Hết sức từ từ, cô thấy biểu hiện nhăn nhó của ông được thay thế bởi vẻ ngạc nhiên. Khi ông nhìn chằm chằm vào chiếc piano đang đứng lộ ra trong hốc thụt của ngôi nhà, cô biết cô đã làm điều đúng. Nghiêng người, cô hôn lên má ông.
“Con đã hoàn tất bản nhạc của cha.” Cô nói. “Giai điệu cuối cùng của chúng ta. Và con muốn đàn cho cha nghe.”