Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

Magic 27


27.



“Anh đã nghĩ gì khi để cô ấy đi một mình như thế hả? Anh đánh rơi mất cái trí óc đồng bóng của anh rồi sao?” Túm lấy cổ áo pajamas của gã Na-Uy khổng lồ, Tristan lôi anh ta ra khỏi giường và tông sầm anh ta vào bờ tường gần nhất.
Tristan đã mất mười lăm giờ để lần theo dấu vết của Sven đến khu nhà không có thang máy ấm cúng ở khu TriBeCa*. Mười lăm giờ loanh quanh trên những con đường thành phố trong cơn mưa phùn lạnh giá, ấn bức ảnh chân dung cô dâu của Arian vào mọi gương mặt mà anh nhìn thấy – những gương mặt say xỉn, da trắng, da đen, cảm thương, ngờ vực, thờ ơ, hoảng sợ, thù địch… Anh đã lôi cuốn sự chú ý đầy tính cạnh tranh của những con thú săn mồi suốt cả ngày trời… những thằng nhóc gương mặt bụ sữa với quả đầu mohawk sặc sỡ như hoa vân anh, mũi đeo khoen, và mang vũ khí tự động bên dưới áo khoác da; những tay thú y tóc hoa râm trong chiếc quần dài nguỵ trang với đôi mắt nhạt nhẽo, vô hồn và cánh tay đầy vết kim tiêm. Bọn chúng đi theo anh qua vài khối nhà, thúc khuỷu tay vào nhau hoặc vào những con quỷ vô hình và nhìn chăm chú đầy đói khát vào chiếc áo choàng đắt tiền của anh, vào đôi giày da thuộc của anh. Nhưng thứ gì đó trên gương mặt không cạo của anh, thứ gì đó hoang dại và hơi điên khùng, đã khiến bọn chúng lẩn đi để tìm kiếm những con mồi dễ dàng hơn.
(*TriBeCa là một khu phố ở vùng lower Manhattan, NY. Tên này được viết tắt từ Tri-angle Below Canal Street – Vùng tam giác bên dưới phố Canal. Thực ra đây là một vùng dân cư có dạng hình thang được bao bọc bởi các con phố Canal, West, Broadway và Vesel.)
Arian đã thất lạc trong gần hai mươi bốn giờ.
Tristan đã trải qua ba giờ đầu tiên trên điện thoại, hăm doạ mọi sĩ quan cảnh sát và những người cai quản các vùng phụ cận, những người chưa bao giờ nài nỉ anh tài trợ cho những bữa tiệc từ thiện thường niên của họ. Anh đã không buột miệng nguyền rủa khi anh nghe những người vợ của họ càu nhàu trong hậu cảnh hoặc khi những lời nguyền rủa lặng thầm của chính họ làm thay đổi vẻ vui đùa bị kềm hãm đáng thương khi họ nghiên cứu tay tỉ phú dẻo mồm từ đại lộ số Năm đã làm lạc mất cô dâu của mình. Tất cả những gì anh có thể phải nguyền rủa là họ đã nhận điện thoại và hối thúc người đàn ông đang càu nhàu của họ ra khỏi chiếc giường ấm áp, thoải mái của mình để tìm kiếm Arian.
Tristan đã trải qua ba đến năm giờ chiều đặt những kỹ năng tổ chức đáng kể của anh vào việc tìm kiếm. Anh triệu tập phần lớn nhân viên, hứa hẹn tăng gấp ba lần lương phụ trội cho công việc ngày Chủ nhật, và giúp họ tập hợp và copy hàng ngàn bức ảnh chân dung của Arian. Anh quay đi mỗi khi một chồng ảnh mới xuất hiện từ máy copy, mỗi khi anh đọc dòng chữ chế nhạo : Giải thưởng cho sự quay trở lại an toàn của Arian Lennox – Một triệu dollar.
Nhưng ngay cả khi anh được cam đoan rằng phân nửa nhân viên tận tuỵ của anh đang tản ra khắp thành phố với những cáo thị trong lúc phân nửa còn lại xử lý điện thoại của toà tháp; ngay cả khi anh biết một đội quân tinh nhuệ nhất New York đang lùng sục các đường phố; ngay cả khi anh hiểu rằng không một mô tả nào về Arian được  nhận từ bất kỳ bệnh viện nào trong khu vực và cô gái da ngăm đáng thương bị bóp cổ đang nằm trên một tấm ván lạnh lẽo tại nhà xác thành phố là vợ hoặc con gái của một người đàn ông khác. Những điều đó vẫn không đủ. Thế nên, vào lúc hừng đông, khi cơn gió bấc nhói buốt vẫn đang đe doạ biến cơn mưa phùn thành tuyết lạnh, Tristan lật cổ áo khoác lên và cúi đầu rời khỏi toà tháp bằng chính đôi chân mình mà không phân nhiệm cho đội anh ninh của anh lần đầu tiên trong bảy năm.
Mười lăm giờ sau đó, anh đang dựng ngược người vệ sĩ của anh trong một phòng ngủ được treo rèm trong sự bày binh bố trận đến hoa mắt với những hoạ tiết hoa lá sặc sỡ . “Anh chỉ thả cô ấy đi thôi sao? Anh không đề nghị đi cùng cô ấy ư? Để bảo vệ cô ấy? Làm sao anh có thể làm một điều đần độn như thế hả?”
Sven vùng khỏi tay của người chủ, quá choáng váng và hối hận để đưa ra được ngay cả một dấu hiệu phản đối. “Cô ấy không cho phép tôi đi cùng. Cô ấy nói cô ấy sẽ lấy mất của tôi công việc và sợ rằng ngài sẽ gởi tôi vào tù nếu ngài tìm thấy chúng tôi đi với nhau.” Anh ta cúi gục mái đầu bờm xờm trong nỗi tủi hổ. “Tôi không muốn bị thu hồi tấm thẻ xanh* của tôi.”
(*Green Card : thẻ chứng nhận là thường trú nhân  hợp pháp ở Mỹ. Người có thẻ này tuy được phép cư trú dài hạn nhưng không phải là công dân Mỹ chính thức, được phép đi làm, con cái được học trường công miễn phí… nhưng không có quyền bầu cử và ứng cử… Có thể bị thu hồi thẻ và bị trục xuất nếu phạm pháp.)
Tristan buông anh ta ra, nuốt vào một lời nguyền rủa. “Nếu tôi không khốn kiếp đến thế, có lẽ không điều gì trong những thứ này sẽ xảy ra.” Anh bật cười cay đắng. “Nhưng tôi khá là giỏi với những thứ chết tiệt đó, anh biết đấy. Tôi đã có cả một đời để thực hành mà.”
Anh dạo bước quanh căn phòng nhỏ, nỗi sợ bị giam giữ lớn dần với mỗi bước chân. Sự tràn ngập những bông hoa và những dải sọc đang quấy rầy đôi mắt mệt mỏi của anh. Khi anh phát hiện ra khẩu Walther bóng mượt rên bàn làm việc, anh biết chính xác anh đang tìm kiếm điều gì. Khi Tristan kéo khẩu súng khỏi chiếc bao da đựng nó, Sven giơ hai tay lên, rõ ràng nghĩ rằng anh định kết thúc mọi thứ.
Nhưng đơn giản là Tristan kiểm tra để bảo đảm khẩu súng đã được nạp đạn, rồi chèn nó vào trong lưng quần jeans của anh. “Anh tìm hướng Lower East Side*. Tôi sẽ đi về hướng Bắc. Cô ấy hẳn là phải tìm một chỗ trú ẩn trong công viên.”
(*Lower East Side : Là khu vực phía đông nam của NY City, một khu phố của dân nhập cư đa văn hoá, đa sắc tộc, và lao động nghèo. Nổi tiếng nhất là Chinatown và khu văn hóa Do Thái.)
“Thưa Ngài?” Sven gọi với theo một cách ngoan ngoãn khi Tristan sải bước đến cửa. “Tôi có bị sa thải không?”
“Quái quỷ, phải, anh đã bị sa thải!” Tristan quát tháo. “Giờ thì làm việc đi!” Sven vẫn cào tóc, đấu tranh để hiểu chiều hướng hoang mang của sự kiện khi Tristan xoay gót. “Thêm một điều nữa, Nordgard.”
“Thưa ngài?”
Nụ cười của Tristan gần như hoà giải. “Lần chuyển nhà kế tiếp, anh sẽ vui lòng lấy thời gian để hoàn thiện địa chỉ trên hồ sơ cá nhân chứ?”
Tristan đã ra khỏi cửa, trước khi lời lầm bầm của Sven “Vâng, thưa ngài,” có thể vươn tới tai anh.


Arian trườn khỏi bên dưới bụi cây tú cầu tiều tuỵ vào lúc đêm xuống để khám phá ra tóc cô đã đông cứng và mưa phùn giá lạnh đã chuyển thành tuyết rơi. Mặc dù những bông tuyết đang xoay tròn ấy tốt hơn mưa rất nhiều, nhưng cơn gió nhói buốt vẫn cắt xuyên qua váy cô giống như một lưỡi dao. Cô dụi mắt, mất phương hướng vì đã ngủ suốt cả ngày. Cô thích có được vài giờ được ngủ vào đêm hôm trước hơn, những mỗi lần cô tìm thấy một chiếc ghế dài thoải mái và chợp mắt lơ mơ, người đàn ông mặc đồng phục nào đó lại thúc vào lưng cô bằng một cái que và ra lệnh cô phải rời đi.
Sau khi lẻn ra khỏi toà tháp và lang thang trên những đường phố dường như bất tận, Arian đã khám phá ra nơi ẩn náu dân dã này. Cô đã lo rằng cô hẳn sẽ cực kỳ dễ phát hiện trong bộ váy rách rưới và mái tóc rối bời, nhưng có nhiều người khác giống y như cô ở chốn này. Những linh hồn lạc lối đi lang thang vô định xuống những con đường tối tăm, một số đi đứng lảo đảo và lầm bầm với chính mình, những người khác đẩy những chiếc xe thồ nhồi nhét đầy những thứ sơ sài là toàn bộ gia sản của họ. Một người đàn ông già nua co ro bên dưới tấm mềm thấm ướt đã nhìn xoáy vào cô bằng một ánh mắt thảm thương đến nỗi cô khuỵu gối xuống và ấn xấp tiền màu xanh mà Sven đã trao cho cô vào trong bàn tay bị liệt của ông cụ.
Bản năng nào đó bảo cô rằng chẳng có gì phải sợ hãi những linh hồn đồng cảnh ngộ này. Họ, giống như cô, đã bị phản bội và bị bỏ rơi bởi những người họ tin tưởng nhất.
Những người mà cô sợ là những người quan sát cô từ trong bóng tối với đôi mắt sắc bén của loài thú săn mồi. Những kẻ lén lút, sừng sững trên cô xuyên qua bóng tối, chỉ di chuyển khi cô di chuyển cho đến khi có sự tiến đến của một cảnh sát cáu kỉnh khác khiến họ cháy nhốn nháo tìm chỗ núp, những con thú săn trở thành con mồi. Đó cũng là những người đã khiến Arian trốn vào bên dưới bụi hoa tú cầu, buộc cô phải đào bới bên dưới đám lá rụng giống như những loài thú nhỏ, hoảng sợ, cho đến khi giấc ngủ ôm choàng lấy cơ thể kiệt sức của cô.
Cô vươn vai khi ló ra khỏi chiếc tổ của cô, nhưng sự vận động đó đã bị thất bại để làm tan những khớp xương đã đông cứng. Âm thanh của tiếng vó ngựa đang chạy nước kiệu nhỏ, quá tang thương để phù hợp với thế kỷ cướp bóc này, khiến nhịp tim cô đập hơi nhanh hơn một chút. Cô vừa vặn có thời gian để nhảy khỏi đường trước khi người cảnh sát trên lưng ngựa phi qua.
Cô nhìn chằm chằm vào lưng ông ta, nghĩ rằng ông ta hẳn là cùng loại với người cảnh sát đã giới thiệu cô với con ngựa Bathsheba yêu dấu của ông ấy.
Ông ta đã ghì mạnh dây cương, quay ngoặt con ngựa trong một vòng cung nhảy lồng lên. Chỉ một ngón tay đeo găng đen vào thẳng cô, ông ta la lớn, “Này, là cô đó! Đứng yên!”
Bên dưới chiếc mũ sắt, ông chỉ là một người lạ khác, chẳng có gì khác biệt với bất kỳ người nào, những người đã quấy rầy cô suốt đêm. Vì cô đang đứng như đóng băng sẵn rồi, Arian xoay người và bỏ trốn, tìm kiếm một chỗ núp trong những thân cây cao chót vót. Ôm chặt chính mình, cô chạy ào xuống lối đi gần nhất, chán ngán những cái bóng và khát khao những an ủi trần tục như ánh sáng và con người.
Không mất nhiều thời gian để xuất hiện những người đang hối hả trên những con đường thành phố. Người ta vội vã đi qua, va vấp và xô đẩy cô như thể cô vô hình, cổ áo khoác bằng len nặng nề của họ lật lên để chống lại sự châm chích của tuyết. Họ không giống những người trong công viên. Họ rõ ràng có một nơi nào đó khô ráo và ấm áp để đến.
Sự khiếm nhã và thờ ơ của họ khiến Arian khó chịu. Khi cô đi dạo trên những con đường trong cánh tay của Tristan, cứ như thể anh đã thả một tấm khiên bảo vệ vô hình quanh cả hai, buộc những người khác phải giữ một khoảng cách lịch sự hoặc sẽ phải lãnh chịu hậu quả.
Nhưng tấm khiên ma thuật đó đã bị thu hồi lại rồi, cô cay đắng nhắc nhở chính mình, và càng sớm dung hoà được mất mát đó thì càng tốt hơn cho cô.
Mùi thịt nướng thơm phức trôi dạt đến mũi Arian khiến mũi cô nhăn lại và miệng cô ứa nước. Cô không nhận ra cô đói thế nào cho đến cái khoảnh khắc đó.
Cô đi theo mùi thơm ngon lành đến tận khởi nguồn của nó chỉ để bị hết hồn khi một người đàn ông thò đầu ra ngoài cửa sổ của một chiếc xe màu bạc lớn và hét lên, “Hot dogs! Món ăn nóng hổi của các bạn đây!”
Cô nhìn hơi nóng bốc lên từ miếng xúc xích mỡ màng trong lúc dạ dày trống rỗng của cô tranh cãi với tính đa cảm, lần đầu tiên hiểu được tại sao những kẻ nghèo khổ có thể nghĩ mèo là một món ăn ngon. Có lẽ bỏ lại Lucifer trong nơi trú ẩn của căn penhouse là một điều tốt.
Arian nhón chân để nhìn lén vào trong cửa sổ của chiếc xe. “Thứ lỗi, thưa ngài. Tôi có thể có một…” Cô không thể nén được hoàn toàn một cái rùng mình nho nhỏ - “…xúc xích không?”
Dầu mỡ tươm ra từ thỏi xúc xích khi ông ta đập nhẹ nó vào một ổ bánh mì tròn đã xẻ ra. “Tất cả là ba đồng năm mươi.”
Arian nhìn chằm chằm ông ta một cách ngờ nghệch.
Ông ta nghiêng ra ngoài cửa sổ, nhìn chăm chú vào chiếc váy rách rưới và đôi giày thiếu nữ đã mòn vẹt của cô bằng ánh mắt hoài nghi. “Đám đỉa đói chết tiệt,” Ông ta lầm bầm. “Tôi phát ốm với toàn bộ các người. Tôi đã đóng góp cho thứ đồ vô công rồi nghề các người bằng tiền thuế mồ hôi nước mắt của tôi và các người vẫn có can đảm đến nài xin thức ăn. Quỷ thật, các người phải lừa dối chính phủ nhiều hơn để lấy tiền trợ cấp và cố có được một cuộc sống lương thiện thay vì bắt tôi làm chứ.”
Arian bắt đầu lùi khỏi chiếc xe hàng. Cô không chắc cô đã làm gì để khiến người đàn ông giận điên như thế, nhưng gương mặt luôn đỏ ửng của ông ta đã biến thành một sắc thái đỏ thẫm đáng sợ.
“Đi đi!” Ông ta quát. “Mang địa ngục ra khỏi đây! Và trong lúc cô ở đó, hãy tìm một công việc đi!” Ông ta nhấn mạnh tràng chửi rủa bằng cách đóng sầm cánh cửa sổ của chiếc xe hàng xuống, trèo vào phía trước chiếc xe và lái đi, tiếng động cơ nổ lớn khiến Arian gần như chết ngạt bởi đám mây màu xanh cuồn cuồn của khói thải.
“Ôi chao!” Cô la lên, khi cô có thể lấy lại được hơi thở. “Ông ta không nên đi loanh quanh mời chào thịt chó nóng với những người lạ nếu ông ấy quá keo kiệt về việc phân phát chúng như thế.”
Với một đường viền ren thảm hại trên chiếc váy mòn xơ, cô quay lại theo hướng đối diện và hành quân xuống lối đi bộ, sự giận dữ của cô gia tăng theo mỗi bước chân. Cơn đói chỉ làm tệ hơn tâm trạng của cô, và trước khi cô nhận ra điều đó, cô đã tự ép bản thân phải thật bình tĩnh. Và tìm được một phát hiện thú vị.
Việc xua đi cảm giác tự thương tiếc chỉ làm tăng cao những cơn rùng mình, nhưng việc giận dữ với phần còn lại của thế giới lại tiếp thêm sức mạnh cho cô. Gương mặt cô ngời lên nhờ sức nóng ấy, những ngón tay râm ran với sự ấm áp. Cô bước nặng nhọc qua lớp tuyết dày, nguyền rủa người bán hog dog, đức cha Linnet, Wite Lize, người cha vô danh của cô, và mọi người đàn ông không thể tin cậy được khác được sinh ra từ khi khởi nguồn thời gian. Cô ghét họ, cô quyết định như thế, nhưng cô ghét chồng cô nhất. Cô ghét anh nhiều đến nỗi cô gần như lạc bước và ngã xuống.
Cô nhanh chóng khám phá ra một ích lợi khác của cơn phẫn nộ đang tuôn trào. Miễn là cô vẫn còn đang bước đi và lầm bầm khe khẽ, gương mặt cô rắn lại trong một vẻ cau có dữ dội, người ta có khuynh hướng tránh đường cho cô đi. Một vài người thậm chí còn né hẳn qua bên kia đường. Sự nhát gan của họ trao cho cô một sự hài lòng có phần hoang dại.
Cô di chuyển trong thái độ đó qua vài khối nhà, lạc trong sự những suy tưởng dữ dội đến nỗi cô không lưu tâm đến đám đông đang thưa dần, tiếng pháo hiệu báo giờ đã tản xa, sự rên rỉ không ngừng của còi tầm, hoặc sự kiện rằng phần lớn đèn đường dọc theo con lộ hẹp đã bị bắn hoặc bị vỡ. Nhưng cô không thể bỏ qua tiếng bass dồn dập của âm nhạc đang tấn công vào tai cô. Cô ngừng lại, cau mày. Ít nhất cô nghĩ đó là âm nhạc. Chẳng có dấu hiệu nào về giai điệu, chỉ một nhịp phách liên tục, quá thâm trầm và sâu sắc đến mức làm rung chuyển đế giày của cô.
Tiếng nhạc dường như bắt nguồn từ mặt trước một cửa hàng thắp đèn mờ mờ với những ô cửa sổ tối đen và một bảng hiệu được thắp sáng cho biết đó là quán Woodrow’s. Ít nhất Arian cũng cho rằng nó được đọc là Woodrow’s. cả hai chữ w’s và r đều bị cháy mất, để lại chữ oodo’s như bị lắp bắp ở chỗ đó.
Không phải nhịp phách kỳ lạ đó lôi cuốn cô vào bên trong, cũng không phải sự hứa hẹn đầy cám dỗ về chỗ trú ngụ và sự ấm áp. Đó là mùi hương không thể lầm lẫn của thịt heo quay. Không phải chó, không phải mèo, mà là heo. Tưởng tượng sẵn một cái đầu lợn đực đang bốc hơi với một trái táo đỏ ngậm trong miệng nó, cô đẩy mở cánh cửa chỉ che một nửa.
Arian không thể biết được cô đã tạo nên cảnh tượng gì. Cô đứng đó, đóng khung bởi tuyết đang xoáy tít giống như tượng thần bằng thạch cao của nữ hoàng bóng đêm, tóc cô đóng băng thành những lọn đá dài sẽ khiến bất kỳ tín đồ Rastafarian* nào cũng phải ghen tỵ.
(*Một giáo phát bắt nguồn từ Jamaica, ăn mặc đặc biệt và tết tóc thành nhiều lọn, không theo tiến bộ của phương Tây, hút cần sa và không ăn thịt lợn, tôm, cua và sữa.)
Một ngón tay căng thẳng ấn vào một cái nút trên một chiếc hộp hình chữ nhật màu đen. Tiếng nhạc tắt lịm và mọi người trong căn phòng mù mịt khói thuốc xoay lại và há hốc miệng nhìn cô.
Căn phòng quá tối, Arian mất gần cả phút chớp mắt điên cuồng để nhận ra rằng mọi gương mặt đang nhìn cô chăm chú với sự pha trộn của kinh ngạc và thù địch đều có những sắc thái khác nhau của màu nâu.





Không có nhận xét nào: