6.
Arian thức dậy vào sáng hôm sau với một cái vươn vai như mèo
con và một cái ngáp chán chê. Cô vùi vào trong chiếc gối bông mềm, nghĩ đến việc
lấy cắp một giờ ngủ nướng nữa, rồi ngồi bật dậy khi cô nhớ ra cô đang ở đâu.
Thành phố New York. Năm một ngàn chín trăm chín mươi sáu.
Trong giường của Tristan.
Mùi hương dìu dịu của loại nước hoa cologne của anh vẫn còn
vương trên lớp trải bằng satin.
Arian bật đứng dậy trong một chuyển động uyển chuyển, bị vây
bọc bởi sự day dứt tội lỗi lố bịch. Nào phải lỗi của cô khi cô tìm thấy hương
thơm suy đồi ngây ngất ấy. Cái mùi ngoại lai nhất mà cô ngửi được từ bất kỳ người
nào trong mười năm qua là mùi mồ hôi từ công việc nặng nhọc trộn lẫn với mùi
tanh tưởi của cá tuyết và mùi xạ hương phàm tục của đám bò và heo.
Ánh nắng tràn qua bức tường kính, xua đi khá nhiều nỗi phiền
muộn mà cô đã trải qua vào đêm trước. Thật là không thể nhìn xuống những đại lộ
hối hả đó mà không trào dâng một sự phấn khích. Cô chưa bao giờ nhìn thấy quá
nhiều người ở trong cùng một chỗ như thế, tất cả đều vội vàng giống như những
chú kiến cần mẫn đi đến nơi nào đó có nhiều sự thúc ép hơn. Cô tỳ mũi vào cửa sổ,
ao ước rằng cô có thể khiến nó mở ra và hấp thu những âm thanh và mùi hương của
thế kỷ ly kỳ này.
Nụ cười trông đợi của cô tan dần như đám mây bay ngang mặt
trời khi cô nhớ lại cảm xúc đảo lộn của đôi mắt màu xám thép đang nghiên cứu
hình ảnh phản chiếu của cô trên mặt kính. Từ mũi đôi dày da bóng loáng đến mái
tóc màu hung lộng lẫy, chủ nhà của cô rỉ ra một sự tự tin nam tính mạnh mẽ đến
mức gần như ngạo mạn. Rùng mình, Arian nhớ đến một người đàn ông ngạo mạn khác,
một người muốn hạ thấp phẩm giá của cô và thậm chí dìm chết cô nếu cô từ chối
khom lưng trước những ước muốn của hắn.
Tristan không bao
giờ quên một người bạn. Hoặc kẻ thù.
Lời cảnh báo nhẹ nhàng của Copperfield quay lại ám ảnh cô.
Arian không có ý định trở thành bạn hoặc kẻ thù của Tristan Lennox. Cô đơn giản
chỉ muốn khám phá ra sai lầm to lớn nào trong cách hành xử đã đưa cô đâm sầm
vào cuộc đời anh.
Cô đã không thể nghĩ ngợi được gì vào đêm hôm trước với thân
thể nhừ tử vì kiệt sức và trí óc mụ mẫn vì choáng váng, nhưng hôm nay suy nghĩ
của cô có cảm giác sinh động như ánh mặt trời.
“Thời gian.” Cô thì thầm, dạo bước qua tấm thảm dày trong
lúc cô tranh đấu để nhớ lại những từ viết tháu vội vã của lời nguyền. “Thời gian hãy ngừng lại nhưng xin tiếp tục
trôi…”
Đó là ý định khá tham vọng của cô để khoá Linnet và bè lũ
khát máu của hắn vào trong thời gian, khi cô thực hiện cuộc đào thoát của cô.
Cô đã không bao giờ mơ đến câu thần chú được hô vụng về ấy sẽ ném cô văng qua
ba thế kỷ vào tương lai. Cô suýt vấp ngã, nỗi phiền muộn của cô dịu bớt nhờ sự
sợ hãi đã chậm chân hơn so với nỗi kích động đang lớn dần. Tại sao ư, quyền
năng của cô hẳn là mạnh mẽ vượt xa hơn cô từng dám hy vọng! Nhưng chúng có đủ mạnh
để mang cô trở lại năm 1689 nơi cô thuộc về không?
Tinh thần của cô rơi thẳng xuống đáy khi cô nhớ lại số phận
tàn nhẫn đang đợi cô ở đó. Nếu vận may hiện tại của cô thắng thế, cô sẽ đến
đúng lúc để nghe Linnet đang sang sảng những từ ngữ phô trương lòng mộ đạo trên
nấm mộ mới đắp của cô.
Thời gian, Arian nghĩ, nhấc cao đầu cô lên. Cô đã vận dụng
được một lần. Điều gì ngăn cản cô không làm một lần nữa? Điều gì xảy ra nếu cô
quay về Gloucesster vào trước ngày Linnet chứng kiến chuyến bay tai hoạ đó ? Có
lẽ cô phải thử nghiệm vài lời nguyền khác, nhưng nếu cô thành công, vị linh mục
ném đá giấu tay kia sẽ cung cấp thêm điều gì cho cộng đồng những người khốn khổ
của Gloucesster?
Cô rên rỉ, chà sát thái dương khi cơn đau đầu do rồng gây ra
đe doạ quay lại. Quá dễ để hình dung về cô với mái tóc mờ xỉn vì bụi, đôi tay
chai sần và thô nhám từ việc vắt sữa bò và đánh vảy cá tuyết, tinh thần bị bẻ
gãy từ việc chiến đấu với tính ngoan cố nhỏ nhen của người Thanh giáo. Mất bao
lâu để cô tàn tạ thành con cừu già khô héo và cay đắng y như Goody Hubbins?
Cô quan sát khu vườn xa lạ bên ngoài cửa sổ với một cách
nhìn mới. Có lẽ có một tương lai khác cho cô so với thứ mà cô vừa hình dung – một
tương lai ở giữa tương lai. Quá khứ không có nhiều thứ để trói buộc cô . Bà ngoại
của cô đã chết, và cho dù không thể phủ nhận việc cô yêu mến Marcus, sự hiện diện
của cô trong nhà ông sẽ chỉ đe doạ vị trí của ông giữa cộng đồng người Thanh
Giáo. Gloucesster bắt đầu có vẻ không nhiều hơn một ký ức mờ nhạt về một giấc
mơ đầy xáo trộn.
Cô sẽ phải dựa vào trí tuệ của cô, để thuyết phục Mr. Lennox
đa nghi rằng cô thuộc về thế kỷ của anh ta. Một nụ cười cay đắng làm cong khoé
môi cô. Người cha mà cô chỉ được biết là một diễn viên vô danh, nhưng ít ra cô
cũng thừa hưởng được một tài năng bắt chước bẩm sinh. Nó đã phục vụ cô rất tốt
khi cô bị lôi đi hết nhà này đến nhà khác, từ Pháp đến vùng thuộc địa, từ cung
điện huy hoàng suy đồi của Vua Louis đến ngôi làng cách biệt của người Thanh
giáo. Cô đã điều chỉnh cách nói năng, cử chỉ, và hành vi để thích hợp với kỳ vọng
của người khác, với một kỹ năng tài giỏi đến mức thỉnh thoảng cô thậm chí còn
quên mất mình là ai.
Khi cô chìm sâu xuống cạnh giường để cân nhắc về kế hoạch của
cô, thứ gì đó xào xạc bên dưới chân cô. Cô liếc nhìn xuống và khám phá ra tờ
báo mà Lennox đã vẫy dưới mũi cô đêm hôm trước.
Giải thưởng một
triệu dollar được đề nghị cho minh chứng của Pháp thuật.
Cô chụp lấy trang báo, đôi mắt cô nheo nheo với một vẻ tinh
quái sẽ khiến Marcus phải quỳ gối để cầu nguyện cho linh hồn vĩnh hằng của cô.
Nếu cô định sống sót trong thời đại xa lạ này mà không phụ thuộc vào bất kỳ ai
ngoài bản thân, cô sẽ cần nhiều hơn trí thông minh và phép phù thuỷ thất thường
của cô. Cô cần nhiều nguồn lực.
Cô mê mải nghiên cứu bài báo, lầm bầm khe khẽ những cụm từ
cô không hiểu. Lòng quyết tâm của cô lớn dần với mỗi từ cô đọc. Cô đã đáp ứng
những điều kiện trong cuộc thi của Lennox. Cô đã chứng minh với anh rằng pháp
thuật tồn tại. Cô xứng đáng nhận giải.
Cô ôm tờ báo vào ngực, trái tim cô nhảy nhót phấn khích. Một
triệu dollar còn nhiều hơn là đủ để cho phép cô trao cho Mr. Lennox kiêu căng một
lời chào chia tay mau lẹ, và đặt chỗ cho chuyến đi đến Pháp. Cô có thể mua một
căn nhà gỗ giống của bà ngoại cô trong giữa khu rừng tách biệt nào đó. Cô thở
dài với nỗi khao khát, hình dung về cây thường xuân bò lên những bức tường bằng
đá rêu phong của ngôi nhà.
Ở đó, cô sẽ tự do trồng những cây thảo mộc của cô, sáng tạo
những câu thần chú, và thử nghiệm những giới hạn của món quà được Chúa trao tặng
mà không có nỗi sợ bị khám phá thường trực. Sau một thập niên thực hành pháp
thuật của cô trong căn hầm đầy bụi bẩn của Marcus chỉ với những con nhện thờ ơ
bầu bạn, ảo ảnh dễ chịu đó khiến cổ họng cô thắt lại vì ao ước.
Nụ cười mơ màng của cô nhạt dần khi cô kéo tấm bùa từ bên dưới
vạt áo ra. Với sự giàu có đó, cô sẽ không bao giờ phải dựa vào những cảm xúc thất
thường của bọn đàn ông về thức ăn, nơi cư trú hoặc hạnh phúc. Cô sẽ không bao
giờ bị ép buộc phải trở thành nhân tình của gã quý tộc giàu có nào đó, rồi cam
chịu bị chuyển từ giường của người đàn ông này đến giường của người đàn ông
khác khi họ đã chán cô. Cô sẽ không bao giờ trở thành như mẹ cô.
Miếng ngọc xanh loé sáng trong ánh nắng với độ trong trẻo hiếm
có so với những viên đá cùng loại. Điều gì sẽ xảy ra nếu cô chỉ đơn giản ước về
chuyện giàu có? Cô tự hỏi vu vơ. Giao số phận vào tay tấm bùa cũng giống như
theo đuổi thảm hoạ vậy, cô sợ rằng cô sẽ tìm thấy bản thân bị vùi sâu bên dưới
một đống đầy ngập những đồng vàng Tây ban Nha hoặc khạc ra những đồng Franc.
Khi dính đến thứ gì đó trần tục như tiền, cô thà tìm kiếm cơ hội của cô với
Lennox hơn là tin vào những tài năng không thể đoán trước được của cô.
Nhưng làm thế nào thuyết phục được anh rằng cô không lừa gạt,
và dỗ ngọt anh chấp nhận trao giải thưởng? Ném tờ báo sang một bên. Cô đứng lên
và đi vào phòng khách với một sự cấp bách chếch choáng . Đáp án cho tình trạng
tiến thoái lưỡng nan của cô rất đơn giản – biểu diễn pháp thuật với anh. Nhưng
sau cuộc chạm trán với Đức cha Linnet, cô sợ đặt niềm tin của cô vào bất kỳ người
đàn ông nào. Đặc biệt là người nguy hiểm như Tristan Lennox. Anh tuyên bố tìm
kiếm pháp thuật, nhưng vẫn nói về các phù thuỷ với vẻ chế nhạo lạnh giá. Với tất
cả những gì cô biết, anh hẳn là một tay săn phù thuỷ đầy tham vọng khác đang
tìm cách để trượt một sơi dây thòng lọng quanh chiếc cổ mảnh dẻ của cô.
Cô chạm tay lên cổ, chặn lại một cơn rùng mình không mong muốn.
Phải có cách nào đó để biết liệu phù thuỷ có còn bị ngược đãi trong thời kỳ này
hay không. Nếu cô có thể chứng minh rằng Mr.Lennox đã được giải thoát khỏi sự
mê tín nhiều hơn ông bà tổ tiên của anh ta, cô sẽ được tự do chứng minh quyền
năng của cô, nhận giải thưởng của cô, và bắt đầu một cuộc sống mới với những thứ
mà cô cầu nguyện rằng sẽ là lần cuối cùng. Ngay khi cô có thể làm điều đó mà
không khuấy động sự nghi ngờ, cô sẽ tìm kiếm trong thư viện. Ánh mắt cô trôi dạt
đến khung trần nhà cao vút. Chắc chắn là một biệt thự lớn như thế này phải có một
thư viện rồi.
Khi Arian dấu tấm bùa trở lại trong vạt áo, một sự nhoi nhói
thiếu thoải mái nhắc cô nhớ rằng cô có những nhu cầu khác vào lúc đó còn khẩn
thiết nhiều hơn kiến thức hoặc tiền bạc.
Hai mươi phút sau, khi lần gõ cửa bẽn lẽn của Sven Nordgard
không nhận được lời đáp nào, anh ta đẩy cánh cửa phòng ngủ của căn hộ mở ra và
thấy vị khách của chủ nhân anh ta đang bò bằng tay và đầu gối bên dưới chiếc
giường.
“Thứ đồ ghê tởm đó phải được giữ ở nơi nào đó, đúng không?”
Lời thì thầm trái ý rõ rành rành của cô vang lên. “Hoặc có lẽ Các Hạ quá hợm hĩnh để cần một cái.”
Sven nhấc tròng của chiếc kính mát lên để nghiên cứu góc độ
hấp dẫn của cặp mông sỗ sàng, không chắc là anh ta nên đi trở ra hay tiếp tục.
Anh ta luôn thấy thoải mái trong việc cư xử với những kẻ khủng bố hơn với phụ nữ.
“Thưa cô?” Anh bẽn lẽn nói.
Cô giật bắn người, va đầu cô vào bậc để chân phủ sơn bóng, đủ
mạnh khiến anh ta nhăn mặt.
“Làm ơn, tôi có thể trợ giúp gì không, thưa cô?”
Cô đứng lên, vừa trừng mắt nhìn anh ta vừa xoa đầu. Ngay cả
với kỹ năng suy diễn giới hạn của mình, Sven cũng không thể không nhận thấy rằng
cô ngọ nguậy không ngừng từ chân này sang chân kia. “Ngài có thể ngừng lén lút
với tôi, thưa ngài.”
Anh ta hạ tròng kính mát xuống lại và cúi đầu. “Mr.Lennox gởi
tôi đến để hỏi xem cô muốn dùng điểm tâm món gì. Có sữa chua và bánh mì nóng với
cream không béo, phó mát, bánh quế mầm lúa mì, bánh muffin nguyên cám, và tôi
luôn luôn có thể ép nước trái cây tươi cho cô. Cam. Nho. Cà chua. Khóm. Đào mật.
Táo. Lê…”
Khi anh ta liệt kê một quân đoàn khổng lồ những thứ đồ uống
ưa thích chủ chủ nhân anh ta, nước da nhợt nhạt của người phụ nữ trở nên thậm
chí xanh xao hơn. Khi anh ta kể lể đến “xoài,” cô bắt đầu lắc lư. Hoảng hốt,
anh ta lao đến để giữ cô.
Cô bám chặt lấy cánh tay khổng lồ của anh ta, khuôn mặt của
cô nhăn nhúm trong nỗi khổ sở quẫn bách.
“Có chuyện gì vậy, thưa cô? Cô bị ốm sao?”
Cô nghiên cứu gương mặt anh ta, như thể đang cân nhắc xem có
nên giải bày với anh ta hay là không. Vẻ nhợt nhạt của cô được thay thế bằng sự
đỏ bừng khi cô đứng nhón trên đầu ngón chân và thì thầm vào tai anh ta thứ gì
đó hướng dẫn thông thường.
Anh ta nhíu mày với cô. “Tôi rất tiếc, thưa cô. Tiếng Anh của
tôi không tốt lắm. Tôi không biết gì về cái chậu bô này hết.”
Thở dài sườn sượt bực tức, cô kéo tai anh xuống sát miệng cô
để rít lên thứ gì đó rõ ràng hơn.
“Ah!” Một nụ cười
khoáng đạt làm rạn nứt gương mặt khắc kỷ của anh ta. “Tôi hiểu rồi.”
Biết ơn vì đã tìm thấy nhiệm vụ mà anh ta có đủ khả năng thực
hiện, anh ta nhét bàn tay nhỏ bé của cô vào trong khúc cong trên cánh tay anh
và dẫn cô đến một chỗ mở rộng của bức tường phủ giấy dán tường. Anh ta ấn vào một
cái nút màu đen bé xíu, không thể tránh khỏi đôi chút khoa trương khi làm như
thế.
Bức tường trượt mở, gợi ra được một tiếng hổn hển hoàn toàn
kinh ngạc từ người bạn đồng hành của anh ta. Cô lướt qua anh vào trong căn
phòng rộng lớn.
Cô đi qua chiếc bồn tắm có sục khí chìm dưới đất bằng đá hoa
cương Italian và những chiếc bồn rửa mặt có bệ đỡ đồng bộ mà không liếc mắt lần
thứ hai. Cô chú ý đôi chút đến tấm thảm nhung màu hoa cà bị nén lại bên dưới
bàn chân cô hoặc bộ vòi sen đôi bằng đồng thau được bao bọc trong một nơi được
rào bằng kính mờ. Không, ngay cả những chiếc khăn tắm màu rượu chát dày phủ qua
một máy sưởi khăn bằng điện cũng không đủ cám dỗ để bẫy sự chú tâm của cô khỏi
vật thể lấp lánh nằm bên dưới ấn bản Andrew Wyeth* trang nhã.
Cô kéo ánh mắt khỏi nó chỉ đủ lâu để loé lên với Sven một nụ
cười toe toét hoàn toàn vui thích. “Tại sao ư, đây là cái bô đặt trong phòng ngủ
tuyệt nhất mà tôi từng thấy!”
(*Andrew
Wyeth : một hoạ sĩ Mỹ chuyên về tranh hiện thực. Các tác phẩm của ông được
trưng bày trong hầu hết các bảo tàng ở Mỹ. Gia đình ba thế hệ, cha ông, ông và
con trai, đều là những hoạ sĩ lớn của Mỹ.)
***
Đôi giày lười hiệu Gucci của Tristan không gây ra thậm chí
chỉ một âm thanh khe khẽ khi anh đi qua hành lang rộng để đến phòng họp ban giám
đốc của Lennox Enterprises. Vì là sáng chủ nhật, mê cung các văn phòng nằm hai
bên sườn của hành lang vắng bóng tất cả ngoại trừ những nhân viên mẫn cán nhất.
Thách thức sự mê tín, Tristan đã đặt trụ sở chính của tập đoàn của anh trên tầng
thứ mười ba của toá tháp.
Copperfield đi đều bước bên cạnh Tristan, xáo trộn điên cuồng
một chồng hồ sơ bằng giấy manila. “Báo chí đang ầm ĩ yêu cầu vài câu trả lời về
cô gái. Tớ có những yêu cầu phỏng vấn tại hiện trường từ tờ The Times, The
Post, tạp chí People và Jay Leno*. Tớ nên nói gì với họ đây?”
(*The Times : Nhật báo của
London – Anh. Đây là tờ báo đầu tiên có tên này, sau này mới có rất nhiều Times
khác : NY Times, Seatle Times, LosAngeles Times..., chả biết muốn nói Times nào
nữa. – Sẻ)
(*The Post : Nhật báo địa
phương.)
(*People magazine : Tạp
chí của Mỹ phát hành hằng tuần, chuyên viết về những người nổi tiếng đương thời.)
(*Jay
Leno : Chương trình truyền hình ‘nói chuyện đêm khuya với Jay Leno’ của Mỹ từ
1992-2009 lúc 22.00 trên đài NBC.)
“Nói với họ tớ không có lời bình luận nào trong thời gian
này.”
Nhịp điệu trong những bước chân của Copperfirld hơi chùn lại.
“Để tớ làm rõ điều này nhé. Thoạt đầu, cậu
đề nghị một triệu dollar cho tay nghệ sĩ bất lương đầu tiên nào đủ thông minh để
lừa bịp cậu. Sau đó một phụ nữ ăn mặc như một xác chết từ lễ tang của dân Amish*
bay đến trên một cây chổi đang bốc cháy và đâm sầm xuống đất trong cánh tay cậu
trước mặt một ngàn nhân chứng và cậu không có bình luận nào ư?”
(*Amish
: Nhóm Ki-Tô Hữu duy truyền thống, ly tách khỏi cộng đồng Anabaptish Thuỵ Sĩ và
Alsatian năm 1693 theo sự dẫn dắt của Jakob Ammann. Những người theo Ammann được
gọi là Amish. Vào thế kỷ 18, họ di cư đến Philadelphia, một số ít cũng đến nới
khác. Hiện nay cộng đồng này tăng lên khoảng 240.000 người và sống khép kín, tự
cung tự cấp, không theo công nghệ hiện đại, cuộc sống và trang phục đơn giản, mộc
mạc y như mấy thế kỷ trước, và vẫn nói thứ tiếng Đức-Thuỵ Sĩ cổ. – Sẻ.)
“Đúng thế. Cho đến
khi tớ có vài câu trả lời cụ thể, tớ chẳng thấy có ích lợi nào trong việc kích
thích khẩu vị của họ. Cậu biết rất rõ là khi tớ làm điều đó thì mùi máu tanh sẽ
chỉ khiến họ thêm đói khát điên cuồng mà thôi.”
Copperfield ghi chép nhanh một chú thích trên một bên lề trước
khi gập một trong những bìa hồ sơ đóng lại. “Vậy cậu đã có kế hoạch làm gì với
cô ấy chưa? Giữ cô ấy như tù nhân trong căn penhouse của cậu trên đỉnh tháp giống
như nàng công chúa nào đó trong câu chuyện tình thời Trung Cổ à?”
“Cô ấy không phải là tù nhân,” Tristan đáp, vẻ mặt ôn hoà của
anh đáng giá nhiều nỗ lực hơn bình thường để duy trì. “Cô ấy có thể đi bất kỳ
khi nào cô ấy muốn.”
“Vậy tớ đoán rằng thật hoàn toàn trùng hợp khi người trông
trẻ của cô ấy chỉ tình cờ là một người Na-Uy cao sáu feet tư (~1.93m)
được trang bị một khẩu Glock 9-mm và một khẩu Walther PPK mà anh ta tin rằng từng
thuộc về James Bond*?”
(*James
Bond – Điệp viên Anh bí số 007, series truyện và phim nổi tiếng, đầu tiên được
viết bởi Ian Flemming-1954, sau khi ông này chết, và nhân vật này vẫn còn được
yêu thích, có thêm nhiều người viết tiếp, đến nay đã lên đến con số 7 tác giả với
12 tác phẩm và 2 tuyển tập, và 7 diễn viên đóng vai này cùng 23 bộ phim. Phim mới
nhất là Skyfall ra mắt 2012. Phim thứ 24 – Spectre đang được quay và sẽ ra mắt
vào 2015. Trong phim, chàng 007 đẹp trai, hào hoa luôn dùng khẩu súng lục tự động
Walther PPK và uống Martini chỉ lắc không khuấy, lái chiếc Aston Martin… và là
niềm mơ ước của mọi chàng trai cũng như các cô gái… và cả những hãng quảng cáo
ăn theo…)
Vẻ chế nhạo bất diệt trong giọng của Tristan đã chín muồi.
“Tớ thú nhận. Cậu đã lật tẩy tớ rồi. Tớ đã trao cho Sven mệnh lệnh nghiêm ngặt
là bắn vào lưng cô ấy nếu cô ấy cố bỏ đi, rồi kéo thân thể cô ấy xuống trục
thang máy gần nhất.”
Dù Tristan sẽ không bao giờ thú nhận rằng anh không chắc sự
hiện diện của Sven là để ngăn chặn Arian bỏ đi hay ngăn chặn anh khỏi trải qua
thêm bất bỳ thời gian nhiều hơn cần thiết nào trước sự hiện diện của cô. Sau sự
ve vãn thoáng qua từ hoạt động tình báo của anh, anh đã trải qua một đêm thao
thức trên ghế sofa trong văn phòng công ty.
Anh đã không để sự cám dỗ tiến xa hơn chuyến theo dõi đêm, bằng
cách vô hiệu hoá những máy quay an ninh của căn penhouse trước khi rời khỏi
trung tâm điều khiển. Anh có thể không lưu tâm liệu Deluth hoặc bất kỳ ai khác
trong đội ngũ nhân viên bảo an của anh có trải qua những giờ làm nhiệm vụ của họ
để liếc mắt đưa tình với đôi chân đang tuổi xuân thì của Miss Whitewood không,
nhưng anh coi khinh ý tưởng họ có thể lợi dụng tình trạng cô quạnh của cô – xâm
phạm đến sự sầu muộn riêng tư của cô như anh đã làm một cách tội lỗi. Anh
thà để Sven làm công việc bẩn thỉu đó
cho anh.
Giết chết ánh bập bùng của sự hổ thẹn bằng một phát súng nhạo
báng, anh nói, “Miss Whitewood dường như không có bất kỳ hứa hẹn nào nhiều hơn
sự thúc bách sưu tập một triệu dollar của cô ấy.” Anh mở tung cửa phòng họp. “Nếu
cuộc họp này xúc tiến như kế hoạch, tớ sẽ để cho cậu thoả mãn với việc đích
thân đuổi cô ấy ra khỏi căn hộ của tớ.”
Ngay khi họ vào trong phòng, ở đó đã có đầy đủ bằng chứng rằng
sẽ không có gì theo đúng kế hoạch. Thay vì những gương mặt tươi cười mà Tristan
trông đợi, họ được chào đón bởi một dãy những vẻ mặt khác nhau xếp hạng từ thất vọng cau có đến hoàn toàn nản
lòng. Những chiếc màn buông xuống để tránh ánh nắng buổi sáng, chỉ để thêm vào
một chút u ám cho căn phòng.
“Buổi sáng tốt lành, thưa các quý bà và quý ông.” Tristan
nói một cách lanh lợi, ngồi vào trong chiếc ghế da bóng lộn tại đầu chiếc bàn hội
nghị làm bằng gỗ sồi.
Khi Copperfield đổ sập vào trong chiếc ghế dành cho anh, một
người trợ lý lấy ra một miếng nhựa sẫm màu để đặt một tách café đen bốc khói cạnh
khuỷu tay của Tristan.
Tristan quan sát năm người đàn ông và ba phụ nữ đang ngồi
quanh chiếc bàn dài, biết rằng họ là nhóm người tài năng nhất trong những nhà lập
trình, vật lý, hoá học và kỹ sư từng được tập họp trong nước Mỹ dưới danh nghĩa
một tập đoàn. Tuy vậy, vào khoảnh khắc này, tất cả đều đang né tránh cặp mắt
anh như thể họ ao ước tận trong tim rằng họ có chiếc vé máy bay một chiều để trở
lại quê hương yêu dấu của họ.
“Tôi tin rằng các vị có kết quả về những gì chúng ta đã thảo
luận.” anh nói, nụ cười của anh dễ hiểu lầm là ân cần.
Vài thành viên của nhóm đã tạo nên màn trình diễn tuyệt vời
qua việc xẻ xuyên qua hàng núi những dữ liệu được in từ máy tính đang rải đầy
bàn, nhưng Gordon Montgomery đã xô dậy trên đôi chân của ông.
Tristan luôn ngưỡng mộ tính bộc trực của người đàn ông Scots
này. Montgomery cũng là người duy nhất trong phòng có chỉ số IQ* cao hơn anh.
Đôi tròng lồi của mắt kính làm phóng to đôi mắt viền đỏ của ông ta. “Tôi thực sự
tiếc, Sir. Chúng tôi đã làm việc suốt đêm, những chẳng có được bất kỳ thứ gì
đáng kể để báo cáo.”
(*IQ - intelligence quotient, chỉ số thông minh, là
tỉ lệ giữa tuổi trí tuệ và tuổi thực của một người, được Francis Dalton nhắc đến
lần đầu tiên vào thế kỷ 19, sau này được thêm nhiều nhà khoa học hoàn thiện
thêm, và giáo sư Lewis Terman của Đại học Standford đề ra cách test bằng trắc
nghiệm và rất được Mỹ ưa chuộng vào những năm đầu thế kỷ XX. IQ=100 là chỉ số
trung bình, IQ cao tương ứng với sự thành công và trí tuệ càng cao. Ngày nay chỉ
số IQ không còn mang tính quyết định nhiều như xưa nữa, vì người ta đã xác định
còn phải kết hợp thêm với chỉ số EQ (Emotional quotient-chỉ số cảm xúc) và AQ (
Adversity Quotient-chỉ số vượt khó) –Sẻ)
“Không chút gì ư? Ngay cả thành phần hoá học của thứ thiết bị
đó cũng không ư? Các nguyên lý dựa trên các phương pháp tiềm năng trong ngành
hàng không của chúng thì sao?”
Montgomery lắc đầu, mái tóc màu vàng hoe không chải, rối như
tổ chim, khiến ông có vẻ giống một nhà khoa học điên nhiều hơn. “Chúng tôi đã cắt
vụn chúng để soi kính hiển vi đến từng chi tiết và thực hiện chụp ảnh cộng hưởng
từ cho đến khi chúng tôi lồi cả mắt ra, nhưng như tôi đã nói với anh, Sir, chẳng
có gì ngoài một đống những mảnh vụn và vô số những cọng rơm bị cháy xém – Một
cây chổi chết tiệt!”
Tristan nhấp một ngụm café. Vị đắng của nó sắc bén cũng gần
ngang bằng nỗi thất vọng của anh. Sau sự đánh giá sai lạc của anh tại trung tâm
kiểm soát đêm qua, bằng cách nào đó thậm chí còn khẩn thiết hơn, anh phải chứng
minh Arian Whitewood không là gì ngoài một kẻ lừa bịp nhỏ bé quỷ quyệt. “Vậy
chúng ta chỉ đơn giản phải thừa nhận rằng động cơ đã rơi mất trong chuyến bay,
gây ra bởi cú va chạm.”
Nụ cười của Copperfield có phần quá chãnh choẹ để là nguồn
an ủi cho Tristan. “Thật đáng tiếc quá chừng, những chiếc chổi quét bếp tiêu
chuẩn nhất không được trang bị máy ghi âm và hộp đen cho việc bay.”
Tristan dành riêng cho anh ta một cái trừng mắt nhanh nhưng
băng giá. “Vậy thì được rồi, Montgomery. Các kỹ thuật viên của anh hãy sắp xếp
bản đồ thành phố xung quanh các toà nhà với từng toạ độ và bắt đầu lùng sục khu
vực trong từng mảnh nhỏ. Sáng ngày mai, chúng ta sẽ…”
“Uh-um, Xin thứ lỗi, Mr.Lennox.” Đầu tóc vàng bờm xờm của
Sven xuất hiện trong khe hở giữa cánh cửa và khung cửa.
“Gì thế, Sven?” Tristan hỏi, không thể dấu được một chút run
rẩy lo lắng. Anh biết không có gì ít hơn một sự đe doạ đặt bom hoặc một cuộc hẹn
thử giọng cho Baywatch mới có thể khiến cho người vệ sĩ rụt rè của anh dám xông
vào văn phòng công ty mà không có sự cho phép của anh.
Bất chấp tình trạng bối rối của mình, Sven không thể không
trao cho chiếc camera an ninh gắn trong góc phòng một cái nhìn tán tỉnh khi anh
ta đi vòng qua bàn. Anh ta khum bàn tay khổng lồ quanh tai của Tristan và thì thầm
điều gì đó.
Tristan cau mày, nghĩ rằng anh đã không nghe đúng. Sven đứng
thẳng lên và ra hiệu cho anh đi đến cửa sổ. Gần như run lên vì tò mò,
Copperfield vượt qua hai người họ để kéo mở những tấm màn, đổ tràn lên sự u sầu
bằng ánh nắng rực rỡ.
Trao đổi những ánh mắt bối rối, các nhà khoa học sắp thành
hàng hai bên cạnh của Tristan khi anh nhìn xuống sân sau bên dưới tầng mười ba.
Mới thoạt nhìn, mọi thứ hiện ra ngăn nắp như
nó nên như thế trong một buổi sáng chủ nhật thanh bình.
“Đó, thưa ngài.” Sven chỉ bằng một trong những ngón tay to
bè của anh ta. “Đài phun nước.”
Tristan nheo mắt lại, nhận ra rằng đài phun nước được thiết
kế là tiêu điểm cho sân sau đang phun phì phì như sắp tắt lịm.
Ngay cả khi anh quan sát, cột nước thu nhỏ dần thành một
dòng chảy, rồi thành sự nhỏ giọt thống thiết. Từng là một kỹ sư ứng dụng,
Montgomery vỗ nhẹ vào vai anh. “Có vẻ như thứ gì đó ở dưới đáy đã làm mất áp lực
nước thôi, Sir.”
“Thứ gì đó,” Tristan tán thành, biết rõ không có sự ngăn trở
nào trên thế giới có thể che dấu được vẻ mặt tăm tối của anh. “Hoặc ai đó.”
Khi anh quay gót và sải bước khỏi phòng họp, Sven và
Copperfield trao đổi một ánh mắt e ngại, thầm đồng ý với nhau rằng, việc đi
theo sẽ chẳng khôn ngoan chút nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét