Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

Magic 3.


3.



Arian cầu nguyện mọi lời kinh cầu mà cô có thể nhớ, cả Công giáo lẫn Thanh giáo, nhưng sự vô thức đã áp đảo cô. Sự cấp bách đã vượt trội lên. Nước đã ép không khí ra khỏi phổi cô, ép máu ra khỏi tĩnh mạch cô, ép tuỷ ra khỏi xương cô. Đầu gối cô đập vào ngực với một cú xóc điếng người. Cô văng mạnh tới trước, chuyển động choáng váng quay cô tít mù cho đến khi cô sợ rằng cổ cô chắc chắn sẽ bị gãy.
Áp lực đã thắng trong một động năng không ngừng nghỉ. Rồi tiếng ầm ĩ inh tai của thuỷ tinh vỡ vây bọc cô. Sự va chạm đã cắt đứt dây trói của cô, cho cô tự do. Tự do hít thở. Tự do quấn những ngón tay quanh chiếc cán chổi thân thuộc, yêu dấu. Tự do bay vút lên cao.
Arian mở mắt và thấy bản thân đang ngồi vững vàng trên cây chổi, bay cao trên những cuộn mây lãng đãng. Sợi chuỗi bùa hộ mạng vẫn quấn quanh những ngón tay đang râm ran của cô. Những lớp váy cô đang mặc bay phấp phới phía sau cô, khô đi nhanh chóng trong làn gió mát lành. Trời đêm tối đen như mực đã tan dần trong ánh ban mai huy hoàng vui vẻ. Sự nhẹ nhõm của cô, khi khám phá ra rằng cô vẫn còn sống, mãnh liệt đến mức, trong một thoáng, cô quên mất nỗi sợ hãi. Cô hò reo trong niềm vui chiến thắng, thưởng thức nhạc điệu của giọng cô trước khi chúng lẫn vào trong gió.
Cây chổi xiên một góc xuống phía dưới, tách khỏi những cụm mây để lộ ra một dải lờ mờ của đất và nước. Nếu đầu gối của Arian không bận kẹp chặt vào cây chổi, hẳn là chúng sẽ va vào nhau trong nỗi kinh hoàng.
Vùng nông thôn Massachusette lổn nhổn đá mờ dần. Thay vào chỗ của nó là bức tường thành sững sững của một ngọn tháp trải dài cho đến mép nước.
“Ôi, Chúa lòng lành. Mình đã chết.” Arian nói khẽ, nhăn mặt với nỗi thất vọng.
Công trình kiến trúc với thép và kính khổng lồ đó chẳng giống chút nào với cổng vòm ngọc trai của thiên đường mà cô vẫn mường tượng một cách lạc quan. Xa, thật xa bên dưới, vô số những chiếc xe nho nhỏ màu vàng trườn dọc theo một mạng lưới những con đường phân nhánh đan rối vào với nhau.
Arian nhắm mắt và siết chặt cán chổi, cô hoa mắt và choáng váng bởi độ cao không thể tưởng tượng được. Nếu, may ra, cô sai về chuyện chết chóc và lấy một cú bổ nhào xuống tương tự như cô đã làm trong khoảng rừng thưa, chiếc chổi sẽ có đôi chút hữu dụng hơn là chỉ quét thành đống mớ xương nát vụn của cô.
Cây chổi nghiêng mạnh sang bên phải. Đôi mắt của Arian chấp chới mở ra và cô thấy bản thân đáng hướng thẳng vào miệng của một ống khói lớn. Ré lên hoảng hốt, cô kéo giật cán chổi lên ngay khi bị bao phủ bởi một đám khói.
Cô trồi lên khỏi đám sương mù xám xịt, ho dữ dội và đập vào không khí bằng bàn tay tự do của cô. Có vẻ như cô đã chẳng làm được gì nhiều để chỉnh hướng đi của cây chổi. Nó khăng khăng tiến thẳng đến một trong những toà tháp cao nhất, một khối cấu trúc toả sáng lung linh tự đề cao mình như một chiếc kim bóng mượt chọc vào trong lớp lụa trời.
Tập trung dũng khí, Arian kéo giật nút ràng buộc thô sơ trên sợi dây chuyền và trượt tấm bùa hộ mạng qua đầu trước khi hất ra phía sau mớ tóc ẩm ướt theo kiểu cô nghĩ là thích hợp với một nữ phù thuỷ đang bay. Bất kể cô sẽ được chào đón tại đích đến cuối cùng bởi thánh Peter*, hoặc ác quỷ Beelzebub*, cô từ chối đi đến đó với sự run rẩy kinh hãi. Tuy vậy, mất năm giây trước khi cô nhận ra đám rễ cứng của chiếc chổi đang bốc cháy, và mười giây trước khi con rồng sà xuống khỏi những đám mây và bất ngờ tấn công cô với một tiếng gầm khủng khiếp.
(*Peter : Vị Thánh gác cửa Thiên Đàng, là môn đồ lớn nhất của Chúa Jesus - Nhớ theo kinh thánh-Sẻ)
(*Beelzebub : Một trong 7 chúa tể của Địa ngục biểu trưng cho 7 tội lỗi cơ bản, bao gồm : Lucifer-kiêu căng, Beelzebub-Ghen tị, Sathanus-Giận dữ, Abaddon-lười biếng, Mammon-tham lam, Belphegor-tham ăn, Asmodeus-dâm dục.)



Copperfield buộc phải la hét qua tiếng ầm ĩ inh tai của động cơ trực thăng bay sát bãi cỏ bao quanh cao ốc Lennox được gọi một cách khiêm tốn là sân sau. “Bây giờ cậu vui rồi chứ, Tristan? Cậu đã kiếm được cho mình một gánh xiếc truyền thông trung thực đầy thiện ý và cậu là người chỉ đạo biểu diễn duy nhất trên sàn diễn.”
Từ chiếc ghế bọc da phía sau bàn hội nghị trên khán đài, Tristan gạch một đường tăm tối ngang qua một cái tên khác và gọi to, “Người kế tiếp.”
Một người dự thi đã được đánh dấu đang mặc một chiếc áo trong nhà in hoa sải bước tới trước, vẫy một chiếc áo len màu hồng nhỏ xíu. “Nếu ngài cho tôi mười hai giờ, Mr.Lennox, tôi thề là tôi sẽ tìm thấy con chó Bắc Kinh thất lạc là chủ nhân chiếc áo len này.”
Người phụ nữ càu nhàu khi một phóng viên huých bà ta tránh đường để ấn chiếc micro vào mặt Tristan. “Có thật không, thưa ngài Lennox, rằng một computer mô phỏng đã xác nhận Richard Rastasi của Iraq uốn cong cán muỗng một phần ngàn tỷ centimeter mà chỉ dụng sức mạnh của trí não?”
Tristan bình tĩnh đẩy chiếc micro sang một bên. “Người kế tiếp.”
“Nhưng tôi đã tìm thấy chùm chìa khoá xe hơi của chồng tôi bên dưới tấm nệm ghế dài và chúng đã thất lạc trên một năm rồi!” Người dự thi nguyền rủa trôi chảy bằng tiếng Yiddish* khi trợ lý của Tristan nhẹ nhàng đưa bà ta đi khỏi.
(*Yiddish : tiếng Đức cổ của người Do Thái ở Trung và Đông Âu – Sẻ)
Copperfield chà xát hai bên thái dương nhức nhối. “Tớ biết tớ nên uống năm viên aspirin liều cao trong sáng nay thay vì ba.”  Một thầy tu Ấn Độ vấn khăn xếp mang đến một cái rổ, một con rắn hổ mang và một ống sáo, lướt lên trước đám đông. Copperfield rên rỉ. “Hay có lẽ nguyên cả chai Prozac*.”
(*Prozac : Một loại thuốc chống trầm cảm và rối loạn thần kinh thể suy nhược – Sẻ)
Anh bắn lên bầu trời một cái nhìn bực bội. Tiếng gầm gừ không thường xuyên của những chiếc trực thăng chắc chắn không giúp gì cho đầu anh. Cả hai chiếc trực thăng của báo Global Inquirer (Người Đưa Tin Toàn Cầu) và Prattler (Người nhiều chuyện) đều đảo vòng vòng giống như những con kền kền từ lúc bình minh, những tay săn ảnh treo người ra bên ngoài những cánh cửa mở, ống kính chụp ảnh từ xa cầm trên tay. Anh tự hỏi không biết kẻ nào ở Prattler đã nghĩ mình hóm hỉnh khi để cho chiếc trực thăng của họ được sơn vẽ tương tự như một con cá mập cận thị như thế.
“Người kế tiếp.” Lời yêu cầu thờ ơ của Tristan vang lên. Cây bút của anh đã hạ xuống với một đường gạch có phương pháp khi tay thầy Ấn Độ lẩn đi. Một ánh đèn nháy lên đột ngột, gây ra một tiếng xì xì buồn thảm từ con rắn hổ mang.
“Bằng cách nào cậu có thể điềm tĩnh được như thế?” Copperfield hỏi. “Sự tín nhiệm của cậu vùi trong đám giẻ rách này rồi. Văn phòng phía trước đã có những cuộc thăm viếng từ đại lý đặt chỗ trên Ricki Lake’s*, America’s Oddest People*, và bốn cổ đông chính đang đề nghị đưa đến những nhà trị liệu của họ.”
(*Ricki Lake’s : Một chương trình truyền hình thể loại Talk Show, phát sóng quốc tế, do Ricki Pamela Lake- nữ diễn viên Mỹ 24 tuổi chủ trì từ năm 1993-2004 : Hãy nói chuyện với Ricki Lake)
(*America’s Oddest People : Người quái dị nhất nước Mỹ. Cụ Google nói hẻm có chương trình này, chỉ có America’s Oldest People, chắc anh Cop nhà ta nói đùa thôi, anh này luôn dí dỏm rất đáng yêu mừ.)
Với đôi chân đặt trên tấm đệm của người viết tốc ký, Tristan vẽ nguệch ngoạc một con chó Bắc Kinh trông giống một đám mây nhiều hơn, trước khi bắn vào Copperfield một cái liếc tinh quái. “ Có lẽ cậu nên xem xét nhóm bác sĩ trị liệu đó. Trông như thể cậu cần sử dụng một vài sự phân tích tâm lý của họ.”
Copperfield giơ hai tay lên với vẻ thất vọng. “Oh, tha lỗi cho tớ, nếu việc trải qua cả đêm trên sàn nhà, trong tủ quần áo của cậu, đã làm trầm trọng thêm chứng loạn thần kinh của tớ.”
Tristan nhún vai, nhìn bất kỳ thứ gì ngoại trừ người dự thi. “Tớ nghĩ cậu biết lối thoát khẩn cấp ở đâu mà.”
“Có một chút khó khăn khi tìm kiếm trong bóng tối. Nếu cậu không gởi Sven đến để tớ ra ngoài trong sáng nay, tớ sẽ vẫn còn đang dò dẫm xuyên qua mớ pajamas lụa của cậu. Và có người đàn ông nào lại thật sự cần đến năm mươi bộ pajamas lụa cơ chứ?”
Ánh mắt của Tristan lướt qua ngực của Copperfield. Một nụ cười ranh mãnh làm cong bờ môi anh. “Cà vạt đẹp đấy. Nó đồng bộ với mắt cậu.”
Cuộc trao đổi của họ bị gián đoạn bởi sự náo động chói tai gần dãy thang máy bằng kính. “Buông tôi ra, cái đồ Visigoth* nhà anh!” Một giọng nói có giáo dục la lên. “Anh đã làm nhăn áo choàng của tôi rồi.”
(*Visigoth là một trong hai nhánh của người Goth, nhánh còn lại là người Ostrogoth. Những bộ tộc này thuộc nhóm người Germanic đã phát triển rộng khắp Đế chế La Mã trong Thời kỳ Di cư – thế kỷ thứ IV. Wikipedia)
Khi một hình dáng đội nón chóp cao thoát khỏi người bắt giữ và chạy đến khán đài. Tristan ngồi dựa lưng vào ghế, sự điềm tĩnh thần kỳ của anh phát triển còn đáng sợ hơn. Một tiếng suỵt thiếu tự nhiên phủ qua đám đông. Các tay phóng viên len lên gần hơn, lỗ mũi giật giật giống như những con thú ăn thịt đánh hơi thấy mùi tanh của đồng trong máu tươi.
Không bỏ phí một khán giả tiềm năng, người mới đến lấy đi chiếc nón chóp hào nhoáng, để lộ một bờm tóc sư tử trắng như tuyết. “Wite Lize, ảo thuật gia dị thường, người phục vụ hèn mọn nhất của ngài.” Ông ta gõ nhẹ đầu chiếc gậy chống; một bó hoa cẩm chướng đột ngột hiện ra. Trò lừa bịp xưa cũ được chào đón bởi một sự tán thưởng thận trọng hời hợt.
Những chiếc trực thăng đã rút lui trong chốc lát và lời của Tristan đập vụn sự yên lặng căng thẳng như những mảnh thuỷ tinh. “Đưa ông ta ra khỏi đây.”
Được chỉ huy bởi Sven - một người Na-uy lực lưỡng mà sự nghiệp diễn viên đang ươm chồi đã bị cắt ngắn một cách bi thảm khi anh ta bị đuổi khỏi Baywatch* bởi sức ép không thể cưỡng lại phải nhìn chằm chằm một cách đáng yêu vào camera - quân đoàn vệ sĩ có mặt khắp nơi của Tristan chuyển vào trong. Họ có thể phân biệt được trong đám đông bởi chỗ phồng lên đáng ngờ bên dưới chiếc áo khoác màu xám và chiếc kính mát Raybans theo thông lệ mà họ đang đeo bất chấp bầu trời phủ đầy mây.
(*Baywatch là series phim hành động ăn khách của Mỹ được sản xuất từ năm 1989, do đạo diễn Douglas Schwartz chỉ đạo sản xuất. Phim do hãng The Baywatch Company kết hợp với Tower 12 ProductionsTower 12 Productions đầu tư sản xuất và trình chiếu trên sóng truyền hình của hơn 140 nước trên thế giới với khoảng 1,1 triệu người xem. Phim có tổng cộng 242 tập, được trình chiếu suốt 10 mùa chiếu từ 1989 – 1999)
Kẻ xâm nhập ve vẩy một ngón tay quở trách vào họ. “Tôi sẽ không làm điều đó nếu tôi là các ông, thưa các quý ông. Theo lời báo chí, cuộc thi này mở cho tất cả mọi người. Tôi có quyền với một triệu dollar đó nhiều như bất kỳ ai. Nếu ngài gây cho tôi nỗi đau đớn về mặt tinh thần, tôi sẽ phải gọi cho luật sư của tôi.” Ông ta lục lọi quanh chiếc mũ chóp cao, kéo ra một con thỏ đang run rẩy trước tiên, rồi tới chiếc điện thoại di động từ bên trong chiếc nón. Một cô gái nhỏ bám chặt lấy tay mẹ và kêu ré lên với sự vui thích.
Những ngón tay của Tristan giật nhẹ, bật lách tách chiếc bút hai lần.
Copperfield mỉm cười, thích thú với sự chưng hửng của xếp anh. “Ông ta ghi điểm đấy. Thêm một vụ kiện sẽ chỉ phát sinh thêm nhiều sự quảng cáo tiêu cực thôi.”
“Ông ta có thể ghi điểm, nhưng chúng ta có một lệnh ngăn trở. Cậu thích tớ lệnh cho Sven bắn ông ta hơn à?”
“Sven,” Copperfield gọi to, mường tượng sẵn một tiêu đề báo ghê tởm. “Anh vui lòng hộ tống Mr. Lize đến lối ra gần nhất nhé?”
Cô gái nhỏ bắt đầu la hét khi những người vệ sĩ nắm giữ cánh tay của nhà ảo thuật .
“Cháu phải tha thứ cho Mr.Lennox, nhóc à.” Lize ngâm nga. “Ngài ấy không thích khi cháu làm cho mọi thứ hiện ra đâu.” Vẻ lễ độ giả tạo của hắn bị vỡ vụn khi họ kéo lê hắn hướng đến lối ra. “Mày chỉ biết làm cho mọi thứ biến mất, đúng không, Lennox?” Đẩy gương mặt vào camera TV của phóng viên, hắn gầm gừ, “Hỏi hắn ta về con trai tôi đi. Hỏi hắn làm cách nào khiến con trai tôi biến mất suốt những năm đó.”
Sự buộc tội quen thuộc tiếp tục ngân lên trong không khí một lúc lâu sau khi Wite Lize đi khỏi, nhưng Tristan chỉ đơn giản búng một tờ giấy mới trên tấm đệm của người tốc ký, chọn một cây bút mạ vàng hiệu Cross* từ túi áo trên bộ suit của anh, và lầm bầm, “Người kế tiếp.”
(*Cross pen là thương hiệu bút nổi tiếng của Mỹ được sản xuất bởi AT Cross Company từ 1846 tại Providence, Rhode Island, NY. Công ty này cũng sản xuất vài loại văn phòng phẩm khác, đồng hồ và kính đọc sách)
Gần như nhẹ nhõm khi tiếng thình thịch uể oải của một chiếc trực thăng quay trở lại đã phá vỡ sự im lặng ngượng nghịu. Người mẹ khuỵu gối xuống để vỗ nhẹ lên má cô con gái, bắn cho Tristan một ánh mắt quở trách. “Nào, cưng, mẹ đã nói với con trước khi chúng ta rời khỏi nhà, rằng làm gì có pháp thuật chứ. Mr.Lennox chỉ đơn giản là có nhiều tiền hơn người bình thường…”
Phần còn lại của câu nói bị chìm khuất bởi một tiếng thét tột cùng sợ hãi, inh tai đến mức chọc thủng nhịp điệu rền rĩ của những cánh quạt trực thăng.
Cô gái nhỏ chỉ lên trên trời, một nụ cười toe toét phô hàm răng sứt làm biến đổi gương mặt lem nhem nước mắt của cô bé. “Nhìn kìa, Mommy – Phù thuỷ độc ác miền viễn Tây kìa!”
Tristan đứng lên. “Cái quỷ gì…?”
Copperfield cũng đang bận há hốc miệng trước vẻ mặt sững sờ của xếp anh đến nỗi bỏ lỡ việc nhìn lên cho đến khi đám đông buột ra một tiếng hổn hển tập thể.
“Thật lạ thường,” Tristan lầm bầm, dõi theo đường dẫn thất thường của vệt khói ngang qua bầu trời. “Tớ không nhớ đã cho phép một máy bay quảng cáo.”
Hàm của Copperfield lại rớt xuống lần nữa khi anh nhận ra vệt khói và sự cháy dở đang đang toả ra từ một chiếc chổi bay. Một chiếc chổi bay được lái bởi một cô nàng ngăm ngăm nhỏ nhắn có tiếng thét đáng sợ gần như inh tai.
Copperfield nhăn mặt khi cỗ máy kỳ dị bay vài đường nhào lộn vụng về quanh chiếc trực thăng, suýt chút nữa thì biến mất trong những cánh quạt đang quay. Không ai nghĩ đến chuyện chụp hình, tay săn ảnh của tờ Pratter nhoài người ra bên ngoài hòng có một cú bấm máy cận cảnh chỉ để làm rơi chiếc máy ảnh và túm chặt sợi đai an toàn của anh ta khi chiếc trực thăng chuyển hướng để tránh va chạm vào đỉnh tháp cao vút của cao ốc Chrysler chỉ trong đường tơ kẽ tóc.
Lựa chọn sự thận trọng hơn là dũng cảm, chiếc trực thăng lui ra xa. Một sự rơi kỳ lạ chiếm giữ cây chổi, làm nó chậm lại đến mức gần như trôi lơ lửng. Rồi nó bỗng lật nhào giật cục hướng đến sân sau, tiếng la của người điều khiển tăng âm lượng lên với mỗi cú bập bênh. Những tiếng hét kết thúc với một tiếng thịch báo điềm gở.
Tristan là người đầu tiên đến bên cô. Thậm chí trước cả khi Copperfield có thể hồi phục từ cú choáng váng của anh và nhảy xuống khỏi khán đài. Tristan đang quỳ gối trên cỏ, đầu người lạ được nâng niu trong lòng anh.
Từ sự vội vàng khi Sven khuỵu xuống trên một gối, hất ra sau bờm tóc kẻ sọc bởi ánh nắng, và kéo khẩu 9-ly bóng mượt của anh ta ra, Copperfield cho rằng người vệ sĩ đã chờ đợi chính xác một cơ hội mà sự chuyên nghiệp của anh ta sẽ được lên phim toàn bộ như thế. “Bước khỏi cô ta, thưa ngài,” Anh ta yêu cầu, làm như thể  Schwarzenegger* trong thời kỳ hoàng kim của ông ấy. “Cô ta có thể là một kẻ ám sát.”
 (*Arnold Alois Schwarzenegger : Vận động viên thể hình, diễn viễn điện ảnh nổi tiếng và cũng là chính khách Công Hoà người Mỹ gốc Áo, từng làm thống đốc thứ 38 của California. Có lẽ ai cũng từng ít nhất một lần coi phim ông ấy đóng rồi: cơ bắp, hơi ngố ngố và hài hước, phim luôn có tính chất phá huỷ rất tốn kém và gay cấn. Ngoài White Lies, thì mình cũng khoái Terminator mà ổng đóng.)
Xếp của anh ta chẳng tỏ ra dấu hiệu gì là có nghe thấy lời cảnh báo, cũng chẳng có ý định để ý đến chúng. Với sự dịu dàng mà Copperfield đã quên mất là anh có, Tristan chải lọn tóc xoăn ra khỏi vầng trán xanh xao của người phụ nữ.
Đôi mi cô rung rung hé mở, để lộ đôi mắt rực rỡ mơ màng. Cô chớp mắt nhìn Tristan, biểu hiện của cô thật kỳ lạ, sau đó nhấc bàn tay đang run rẩy lên để chạm vào gò má của anh. Một nụ cười xiên lệch uốn cong vành môi cô. “Chúa nhân từ. Anh hẳn là Lucifer rồi.”
Khi những ngón tay cô cong vào trong lòng tay và mắt cô chấp chới khép lại, Tristan nhấc ánh nhìn chằm chằm bất lực của anh lên,  Copperfield thoáng thấy một cảm xúc chao đảo mà anh đã không thấy trong mắt của bạn anh trong hơn một thập niên vừa qua.
Kỳ diệu.





Không có nhận xét nào: