Thứ Ba, 7 tháng 10, 2014

Crystal Cove 5

CHƯƠNG NĂM.


Jason ngồi bên chiếc bàn gỗ sứt sẹo và nhìn quanh gian bếp. Đó là một căn phòng rộng rãi và đẹp mắt với những kệ tủ sơn, giấy dán tường in chery kiểu hoài cổ, và những quầy bếp có mặt bằng đá mềm. Một cái chạn bếp khổng lồ đầy những nguyên liệu làm bánh được chưa trong những vại kẹo đồng xu, và thực phẩm đóng hộp chồng chất trên ba và bốn hàng kệ sâu.
Anh quan sát cô đào bới những vại Mason thuỷ tinh chứa đầy các loại rau củ ngâm chua và mang chúng đến bàn.
Kéo ra chai Stolichnaya từ tủ lạnh, cô đặt chúng xuống trước mặt Jason cùng với hai chiếc ly. “Anh rót đi.” Cô nói, và đi để cắt một ổ bánh mì baguette thành những lát hình oval thanh nhã. Anh chỉ vừa vặn tách ánh mắt anh khỏi cô đủ lâu để tuân theo.
Trong chứng mực quen biết của họ, Justine Hoffman đã trêu chọc và chế diễu anh theo cách không ai dám. Cô chẳng hề có ý tưởng gì về việc anh đã trao cho cô bao nhiêu quyền hạn, rằng anh có thể nghiền nát cô dễ dàng như thế nào. Nhưng sự thật là, cô đã làm anh thích thú nhiều hơn bất kỳ ai đã làm trong một thời gian dài.
Cô là một người phụ nữ xinh đẹp, với thân hình mảnh mai, mái tóc sẫm, làn da đẹp và gương mặt góc cạnh sắc sảo. Cô cư xử y như cô nói. Cứ như có một tấm bảng gắn trước mặt cô, nó có thể tẩy xoá vài lần khi này khi khác. Anh nên cảm thấy khó chịu với điều đó, ngoại trừ rằng anh không thể ngừng tưởng tượng ra những cách kéo cô nằm xuống bằng miệng anh, tay và thân thể anh.
Tấm bảng đó đã tiết lộ về một người phụ nữ không cho phép bất kỳ kiểu vượt quá giới hạn nào. Cô đã lớn lên mà không có cha, điều này khiến cô có khả năng có những vấn đề về hành vi, bỏ học, lạm dụng rượu hoặc ma tuý. Nhưng chẳng có bất kỳ dấu hiệu nào về những rắc rối. Không có vấn đề tín dụng. Không có nhiều lịch sử tình dục, chỉ một vài mối quan hệ êm ả, chẳng cái nào kéo dài quá một năm. Không có báo cáo bị bắt giữ nào, những rắc rối do thuốc hoặc nghiện. Chỉ một vé phạt về đậu xe từ bảo vệ khu học xá trường đại học của cô. Xem ra những thứ thông thường vẫn điều khiển nhịp sống của con người – thèm khát, tham lam, sợ hãi – dường như không thứ nào áp dụng được với Justine Hoffman.
Nhưng mọi người đều có thứ gì đó phải che dấu. Và ai cũng muốn thứ gì đó mà họ không có.
Trong trường hợp của Justine, Anh biết thứ đầu tiên đó là gì. Tuy vậy, cái thứ hai thì... Đó là một câu hỏi đáng ghi điểm.
Đứng bên cạnh bàn, Justine sắp đặt thức ăn trên một cái dĩa lớn. “Anh là người ăn chay, đúng không?”
“Khi điều đó có thể được.”
“Anh bắt đầu ăn uống theo cách đó khi anh đến ở tại thiền viện Zen à?”
“Sao em biết về thiền viện?”
“Chúng ở trong trang Wikipedia về anh.”
Anh cau mày. “Anh đã cố tống khứ những trang đó. Những nhà quản lý đã liên tục đánh đổ và phá bỏ. Hình như quyền của con người về sự riêng tư chẳng làm phiền gì đến họ.”
“Những người bình thường cũng phải khá khó khăn để có sự riêng tư trong những ngày này. Điều đó hẳn là không thể đối với ai đó giống như anh.” Justine mở gói một miếng cheese hình nêm và đặt chúng trên thớt. Cô bắt đầu xắt chúng thành những lát mỏng trong mờ. “Vậy anh trở thành người ăn chay vì lý do nghiệp chướng à? Anh thấy lo lắng về việc sẽ phải đầu thai là gà con hay thứ gì đó sao?”
“Không. Đó là thứ được phục vụ ở thiền viện mà. Và anh thích chúng.”
Giơ một quả trứng đã được luộc kỹ lên, Justine hỏi. “Trứng và các sản phẩm được làm từ sữa có OK không?”
“Chúng cũng ổn.”
Justine chất lên dĩa những hạt đậu sáp vàng ngâm chua, hạt hạnh nhân Marcona rang muối, trái olive xanh Spanish phủ bơ, những miếng óng ánh như san hô của cá hồi muối tại nhà, Trứng gà nông trại luộc chín, những lát phô mai Manchelo hình tam giác, một hình nêm ít béo của cream Brie ba màu, vài quả vả khô tròn trĩnh. Chiếc dĩa đi kèm với một giỏ bánh mì baguette cắt lát và bánh quy dòn vị hương thảo mặn.
“Bon appétit*” Cô nói một cách vui vẻ và ngồi xuống bên cạnh anh. (chúc ngon miệng – Tiếng Pháp)
Khi họ ăn và nói chuyện, Jason nhận thấy bản thân anh thích thú với sự bầu bạn của Justine. Cô quyến rũ, dễ cười, kiểu phụ nữ sẽ thẳng thắn với bạn. Gương mặt cô dễ đọc như một bài thơ Haiku của Nhật, đôi mắt nâu mượt như nhung, khuôn miệng lộng lẫy và hồng tươi như một nụ hoa anh đào. Nhưng có thứ gì đó khêu gợi trí tò mò không mang tính nhục dục về cô, một vẻ lạnh nhạt xa cách rất tinh tế. Chúng khiến anh muốn đốt cháy rụi cái vẻ lãnh đạm thuần khiết đó.
“Tại sao em quyết định điều hành một quán trọ có phục vụ điểm tâm?” Anh hỏi, tập trung vào lát củ cải trên miếng bánh quy dòn tẩm bơ. “Trông chúng không có vẻ là thứ mà một phụ nữ đơn thân trong cỡ tuổi của em muốn làm.”
“Tại sao không?”
“Nó là một cuộc sống tĩnh lặng,” Anh nói. “Bị cách ly. Em sống trên một hòn đảo không nhiều hơn tám ngàn cư dân. Em hẳn sẽ thấy chán.”
“Không bao giờ. Suốt thời thơ ấu em đã phải chuyển đi hết nơi này đến nơi khác. Em có một bà mẹ đơn thân không thể ở yên một chỗ. Em yêu sự thoải mái của những thứ quen thuộc... những người bạn mà em gặp hàng ngày, những chiếc gối cho cảm giác vừa vặn bên dưới đầu em, khu vườn thảo mộc của em, những chuyến đạp xe qua núi. Em thích chạy trên những con đường tương tự và đi bộ trên những bãi biển tương tự cho đến khi em có thể nói về bất cứ chỗ nào có thay đổi nhỏ nhất. Em yêu việc được gắn bó với một nơi như nơi này.”
“Anh hiểu.”
“Anh ư?”
“Phải. Người Nhật tin rằng em không chọn chỗ ở mà chỗ ở chọn em.”
“Nơi nào được chọn cho anh?”
“Chưa xảy ra.” Vào lúc này, những nơi đó không thích hợp nữa. Anh sở hữu một căn condo ở vịnh San Francisco, một căn aparment ở New York, và một nhà nghỉ ở hồ Tahoe. Mỗi thứ trong chúng đều đẹp, nhưng không căn nào từng cho anh cảm giác anh thuộc về nơi đó khi anh đi qua cửa trước.
Justine nhìn anh chằm chằm với vẻ suy đoán. “Tại sao anh lại đến thiền viện Zen?”
“Anh cần câu trả lời cho một câu hỏi.”
“Anh có nhận được chúng không?”
Điều đó mang đến một nụ cười héo úa trên môi anh. “Anh tìm thấy câu trả lời. Nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi khác.”
“Anh đi đâu sau đó?”
Jason nhướng mày thành vòng cung chế diễu. “Điều đó không có ghi trong trang Wikipedia về anh sao?”
“Không. Cuộc đời anh có một khoảng trống lớn trong đôi năm. Vậy, anh đã làm gì?”
Jason lưỡng lự. Thói quen bảo vệ sự riêng tư của anh không dễ đặt sang một bên, ngay cả khi anh muốn.
“Em đã ký cái thoả thuận bảo mật kinh khủng đó rồi.” Justine bảo anh. “Anh có thể moi gan ruột của anh ra và em sẽ không nói một lời nào.”
“Điều gì xảy ra nếu em phá vỡ giao kèo?” Anh hỏi. “Đi tù? Hay bồi thường bằng tiền?”
“Em không biết. Đó là hợp đồng của anh mà.”
“Chúng ta có ba phiên bản với những ấn bản tuyệt hảo khác nhau. Anh muốn biết Priscilla đã đưa cho em cái nào?”
Justine nhún vai và cười toe toét. “Em không bao giờ đọc những ấn bản tuyệt hảo. Chúng luôn là những tin xấu.”
Nụ cười thiếu thận trọng của cô thấm qua anh giống như một ánh chớp chuyển động chậm.
Anh đã không mong đợi cô gây ảnh hưởng trên anh. Anh chưa bao giờ cảm thấy bất kỳ điều gì như thế trước đây. Thứ gì đó về cô đã đặt thần kinh của anh trên những ngòi nổ, những cảm giác chưa từng được biết đến thật sự đang nổ tung. Thận trọng, anh khép những ngón tay quanh ly vodka thứ hai của anh và uống nó bằng một động tác nuốt đầy kinh nghiệm.
Justine nghiêng đầu, nghiên cứu anh. “Tại sao anh dấn thân vào lĩnh vực kinh doanh trò chơi điện tử?”
“Anh khởi sự là một người thử trò chơi khi anh tốt nghiệp và đã viết vài trò chơi 2-D đơn giản. Sau đó, bạn của một người bạn đang thiết lập một studio và cần người giúp về thiết kế và viết chương trình. Cuối cùng, anh được thuê để khởi đầu bộ phận game tại Inary.”
“Điều đó giải thích bằng cách nào anh tiến hành công việc đó,” Justine nói. “Nhưng em muốn biết lý do tại sao cơ. Điều gì đó về video-game ấy?”
“Anh thích đua tranh.” Anh thú nhận. “Anh thích khía cạnh mỹ học của một game được thiết kế kỹ. Anh thích việc xây dựng thế giới, đặt ra những thách thức, những cạm bẫy...” Anh ngừng lại. “Em có thích chơi game không?”
Cô lắc đầu. “Không phải thứ yêu thích của em. Một vài game em đã chơi thử thì rất phức tạp và bạo lực, và em thật sự không thích tính phân biệt giới tính của chúng.”
“Không trong trò chơi mà anh sản xuất. Anh không cho phép đường lối câu chuyện bao gồm mãi dâm, hãm hiếp, ngôn từ mất phẩm giá hướng đến phụ nữ.”
Justine dường như không mấy ấn tượng. “Em đã thấy vài tranh quảng cáo cho Skyrebel – đó là game của anh, đúng không? – và phần lớn nhân vật nữ ăn mặc như những ả điếm không gian. Tại sao họ cần mặc váy ngắn bằng da và mang giày ống gót cao năm inchs để đánh lui cuộc tấn công của những chiến binh mang giáp sắt?”
Cô đã ghi điểm. “Đám nhóc vị thành niên thích điều đó.” Jason thừa nhận.
“Cũng nghĩ thế.” Cô nói.
“Nhưng bất luận họ ăn mặc ra sao, những nhân vật nữ mạnh mẽ y như nam giới mà.”
“Phân biệt giới tính bao gồm cả sự phô bày, âm thanh cũng như hành động.”
“Em theo chủ nghĩa nữ quyền à?”
“Nếu anh định nghĩa nữ quyền là việc ai đó muốn được đối xử bình đẳng và được tôn trọng, phải. Nhưng vài người có khuynh hướng nghĩ nữ quyền là giận dữ thì em không phải.”
“Anh sẽ nổi giận nếu ai đó gởi anh vào cuộc chiến trong đôi giày boot cao năm inchs và váy ngắn da.”
Justine bùng nổ tiếng cười và rót thêm vodka. Cô nhắp một ngụm và nhám nháp trái olive xanh đen. Khi Jason quan sát chuyển động của miệng cô, môi cô mím quanh thứ trái cây tròn trĩnh, anh cảm thấy một cái giật sâu khuấy đảo hưởng ứng.
“Anh có từng chơi Thật hay Thách chưa?” Justine hỏi, đặt hột trái olive sang bên.
“Không, kể từ khi học trung học,” Anh nói. “Anh có thể nói là anh đã bỏ lỡ trò đó.”
“Em cũng không. Tuy nhiên... muốn chơi vài vòng không?”
Dựa lưng vào ghế, Jason nhìn cô ước lượng. Không nghi ngờ gì cô nghĩ điều đó sẽ tước vũ khí của anh, ép buộc được đôi ba câu trả lời mà anh sẽ không trao cho cô trong những tình huống khác. Nhưng điều đó sẽ có hiệu quả với cả hai bên. “Anh không bao giờ chọn Thách hết.” Anh nói.
“OK, vậy với anh tất cả sẽ là Thật. Bây giờ, về giới hạn, em nghĩ chúng ta nên...”
“Không có giới hạn. Không đáng để chơi như thế.”
“Không giới hạn,” Justine đồng ý, giọng cô có vẻ khang khác và yếu ớt. “Về hình phạt thì thế nào?”
“Bất kỳ ai mất một vòng chơi phải bị cởi bỏ một món đồ trên người.” Anh hài lòng khi thấy đôi mắt mở rộng của Justine.
“Okay.” Cô nói. “Em bắt đầu : Nói cho em suy nghĩ của anh về hạnh phúc thực.”
Anh với tay lấy một mảnh khăn giấy nhỏ và gấp nó theo đường chéo, dùng cạnh của ngón tay cái để làm bén nếp gấp. “Anh không tin vào hạnh phúc.” Lật mảnh khăn lên, anh gấp nó thành một hình vuông nhỏ. “Người ta cho rằng, họ thấy hạnh phúc khi có thứ gì đó như là một hộp bánh doughnut, thắng một cuộc tranh giải Lakers nổi tiếng, hoặc một tư thế sex với một cái tên Latin gây ra một chất hoá học xác định để tấn công vào các thụ quan trong não, kích thích những xung động điện tử trong các neutron thần kinh. Dù vậy, điều đó không kéo dài. Chúng không phải cảm xúc dài hạn. Chúng không thật.”
“Nghe như thuốc giảm đau ấy.” Justine nói, bật cười.
“Em hỏi.” Anh xếp cạnh của chiếc khăn ăn vào phía trong thành một hình tam giác bị đè nén. “Vòng kế tiếp : Thật hay Thách?”
“Thật.” Cô đáp mau mắn, quan sát chuyển động của bàn tay anh một cách thận trọng, cân nhắc.
“Tại sao em chia tay bạn trai ?” Anh bắt đầu xếp và gấp nếp những chiếc cánh của hình tam giác.
Một làn sóng màu hồng tràn qua đến tận chân tóc cô. “Nó chỉ ... không đi đến đâu.”
“Đó không phải câu trả lời. Nói cho anh lý do.”
“Đôi khi chẳng có nguyên do gì trong chuyện người ta tan vỡ.”
Anh ngừng lại giữa chừng việc xếp những đỉnh của hình thể bằng giấy và trao cho cô ánh mắt chế diễu. “Luôn có một lý do.”
“Vậy thì em không biết đó là gì.”
“Em biết đó là gì. Em chỉ không muốn thú nhận điều đó thôi. Như vậy có nghĩa là em bị mất lượt.” Anh nhìn cô đầy mong đợi.
Nhăn mặt, Justine văn vẹo tuột chân ra khỏi một chiếc sandal màu trắng thanh nhã và đẩy nó về hướng chiếc ghế của anh.
Đôi chân trần của cô, xinh xắn với ngón chân dài, móng sơn màu xanh nhạt lấp lánh, thu hút sự chú ý của Jason.
“Đến lượt anh.” Anh nghe cô nói, miễn cưỡng anh kéo ánh mắt lên khuôn mặt cô. “Anh đã làm gì trong suốt hai năm rời khỏi thiền viện?”
Anh bóc các cạnh của mảnh khăn giấy khỏi các cách đã xếp cho đến khi chúng tương tự những cánh hoa. “Anh đến ở với những người họ hàng ở Okinawa. Mẹ anh có nửa dòng máu Nhật. Anh chưa bao giờ gặp họ hàng của bà, nhưng anh đã luôn muốn. Anh nghĩ điều đó sẽ giúp anh cảm thấy gần gũi với bà hơn.” Trước khi Justine có thể đáp, anh trao cho cô miếng giấy xếp hình theo nghệ thuật origami đã hoàn tất.
Cô nhìn nó do dự, đôi mắt cô đảo vòng và kinh ngạc. “Một bông hoa lily.”
“Yuri.” Anh thì thầm. “Một cái tên Nhật mô tả cách những bông hoa di chuyển trong gió. Thật hay thách?”
Cô chớp mắt, bất chợt cảnh giác. “Thật.”
“Điều gì gây ra đổ vỡ với người bạn trai mới đây của em?”
Miệng Justine quên cả mở ra. “Anh đã hỏi câu đó rồi.”
“Vẫn không định trả lời sao?”
“Không.”
“Vậy phải bỏ một món đồ khác.”
Phẫn nộ, Justine tháo chiếc sandal còn lại và tung qua cho anh. “Anh định tiếp tục hỏi mãi một câu hỏi tương tự , đúng không?”
Anh gật đầu. “Cho đến khi em trả lời. Hoặc em phải khoả thân.”
“Anh không thể nghĩ ra còn thứ gì khác mà anh muốn biết về em sao?”
“E rằng không.” Anh cố ra vẻ ăn năn. “Anh có khuynh hướng hay tập trung thái quá. Kiểu suy nghĩ một lối mòn.”
Justine trao cho anh một cái liếc toé lửa. “Vòng kế tiếp. Anh nói anh đi đến thiền viện Zen để tìm câu trả lời về thứ gì đó. Anh đã tìm thấy gì?”

“Anh đã phát hiện ra,” Anh nói chậm rãi, “anh không có linh hồn*.” (Soul :linh hồn, cũng có nghĩa điệu nhạc soul nhịp 2/4 – Ct của Sẻ)

Không có nhận xét nào: