CHƯƠNG 12.
“Điều đó nghĩa là gì?” Justine hỏi gặng, đôi mắt cô mở rộng.
“Jason đã nói với cháu điều tương tự cách đây hai đêm.”
“Vậy ra cậu ta nhận thức được điều đó à?’ Sage hỏi, xếp gọn gàng
chiếc quần lại. “Hấp dẫn làm sao. Thông thường thì họ không biết gì hết đâu.”
Bà ném một cái liếc đầy ý nghĩa cho Rosemary.
“Ai đó hãy giải thích cho cháu đi.” Justine nài nỉ. “Bà đang nói
anh ấy mắc bệnh tâm thần dạng lãnh cảm hay gì đó à?”
“Không. Không chút vào.” Sage cười lục cục và nghiêng người qua
vỗ nhẹ lên đầu gối của Justine qua lớp mền bông. “Bà đã gặp vài người hoàn hảo
đáng yêu không có linh hồn. Điều đó không có gì để phê phán hết, và chắc chắn
là không thể giúp đỡ được; chỉ vậy thôi.”
“Bà nhận ra điều đó bằng cách nào? Bà ám chỉ điều gì?”
“Những phù thuỷ truyền đời thường có mánh cảm nhận khi gặp ai đó
không có linh hồn. Cháu không cảm thấy khi cháu gặp Mr.Black lần đầu sao?”
Sau khi cân nhắc câu hỏi, Justine đáp chậm rãi. “Trong một giây,
cháu phần nào muốn bước lùi khỏi anh ấy. Cháu không chắc là tại sao.”
“Chính xác. Cháu sẽ có được kinh nghiệm hết lần này đến lần khác
khi cháu gặp người mới. Nhưng dĩ nhiên cháu sẽ không bao giờ nên nói gì về điều
đó. Phần lớn trong số họ không nhận thức về thứ họ thiếu, và họ không bao giờ
muốn biết.”
Justine chợt thấy đau khổ một cách không thể giải thích. “Cháu
không hiểu điều này. Không chút nào.”
“Cho dù không có linh hồn,” Rosemary giải thích, “cháu vẫn có những
cảm xúc, suy nghĩ và những ký ức. Cháu sẽ vẫn là cháu. Nhưng cháu sẽ không có…
sự siêu nghiệm. Chẳng có gì còn lại sau khi cơ thể cháu tan rã.
“Không Thiên đường hay Địa ngục.” Justine chầm chậm nói. “Không
Valhalla*, Summerland, hay thế giới bên kia… chỉ ‘bụp’ và bạn biến mất mãi
mãi.”
(*Valhalla hay
Valhall: Cung điện của những người tử trận, một trong những lâu đài của thần
Odin trong thần thoại bắc Âu.
*Summerland : Thuật
ngữ chỉ thế giới mà người ta sẽ đến sau khi chết của Wiccan – những người tin
vào pháp thuật. Tất cả mọi người, ngoại trừ tinh thần người ở lại bị mất và đi
lang thang, đều đi đến Summerland, ngay cả những kẻ ác. Các Wiccan không tin địa
ngục hoặc sự trừng phạt hay phát xét. Tại Summerland, các linh hồn sẽ gặp lại
người thân, sẽ có cơ hội chiêm nghiệm những việc đã làm, và sẽ được tái sinh
khi đã sẵn sàng. – Ct của Sẻ)
“Chính xác.”
“Bà luôn tự hỏi, liệu trong thâm tâm họ không cảm nhận gì về điều
đó hay sao,” Sage suy tư thành lời. “Người không có linh hồn dường như hiếm khi
đạt đến tuổi già, và họ có khuynh hướng sống rất mãnh liệt. Như thể họ cảm nhận
được sự giới hạn về thời gian của mình.”
“Điều đó nhắc tôi nhớ đến một đoạn thơ nhỏ mà bà luôn thích,
Sage. Bài thơ về một ngọn nến.”
“Edna St. Vincent Millay.” Sage mỉm cười khi bà đọc, “Cây nến của
tôi cháy lên cho cả hai phía;/Nó sẽ không kéo dài suốt đêm; / Nhưng này, kẻ thù
của tôi ơi, và này, bạn của tôi ơi…/nó sẽ trao tặng một ánh sáng đáng yêu!”
(*Edna
St. Vincent Millay 1892 - 1950 : Một nhà thơ và nhà viết kịch người Mỹ. Bà là
người nữ thứ ba đoạt giải Pulitzer cho thơ năm 1923. Bà viết văn xuôi dưới bút
danh Nancy Boyd và cũng được biết đến với như một nhà hoạt động vì nữ quyền.)
“Điều đó mô tả về người thiếu linh hồn một cách hoàn hảo.”
Rosemary bảo Justine. “Họ lao vào trải nghiệm mọi thứ khi họ có thể trước khi
điều đẹp đẽ nhất tan biến. Khao khát nếm trải. Nhưng không quan trong họ đã đạt
được bao nhiêu thắng lợi, chúng vẫn không đủ… và họ không bao giờ hiểu tại
sao.”
“Bằng cách nào người ta lại đi đến nông nỗi không có một linh hồn?”
Justine hỏi bằng giọng chết lặng.
“Vài người chỉ đơn giản sinh ra đã thế. Đó là một đặc điểm giống
như màu mắt hoặc kích thước bàn chân.”
“Nhưng điều đó hết sức bất công.”
“Cuộc đời vốn dĩ không công bằng.”
“Điều đó có thể sữa chữa bằng cách nào?” Justine hỏi. “Làm thế
nào để một người không có linh hồn có thể xoay sở để có được nó?”
“Anh ta không thể.” Rosemary đáp. “Điều đó là bất khả. Hoặc chí
ít bà chưa bao giờ nghe về một điều như thế từng xảy ra.”
“Nhưng nếu họ nhận biết việc họ không có linh hồn,” Sage nói,
“đó là khi tình thế trở nên hiểm nghèo. Mỗi sinh thể sống bắt buộc phải gìn giữ
sự tồn tại của riêng chúng. Có bất kỳ điều gì mà một người đàn ông như Jason sẽ
không làm để có một cơ hội vươn đến sự vĩnh hằng không?”
Không. Sẽ không có gì cản được anh.
Bàn tay của Justine trườn đến vùng giữa ngực cô, nơi chiếc chìa
khoá bằng đồng nhỏ bé được che dấu bến dưới vạt trước của chiếc váy ngủ.
Rosemary nhìn cô với vẻ thương cảm. “Bà thấy rằng lúc này cháu
đã hiểu. Kết giao với một người như Jason có thể trở thành một cuộc khiêu vũ với
quỷ sư.”
“Jason có thể nào yêu một ai đó nếu anh ấy không có linh hồn
không?”
“Dĩ nhiên.” Sage nói. “Rốt cuộc thì cậu ta vẫn có một trái tim
mà. Thứ cậu ta không có là thời gian.”
***
Sau một lúc lâu chăm sóc chiếc du thuyền, Jason chậm rãi trèo trở
lại ngọn hải đăng. Những bậc thang bằng đá cũ kỹ đã xuống cấp tệ hại, một số đã
bị xô lệch, nhiều miếng đá đã bị vỡ. Vùng trung tâm của mỗi bậc thang bị mòn đến
nỗi võng xuống vì chịu đựng những dấu giày nhiều không đếm xuể. Mưa đã khiến
chúng trơn trượt một cách nguy hiểm. Những cơn gió giật thốc tới từ những hướng
khác nhau thách thức sự thăng bằng của anh. Anh vẫn không hiểu bằng cách nào
anh đã xoay sở được để mang Justine lên những bậc thang mà không ngã; trong suốt
thời gian đó anh đã bị kích thích bởi adrenaline để có thể nghĩ đến điều đó.
Anh ngờ rằng anh sẽ không bao giờ hồi phục khỏi cảnh tượng
Justine vùng vẫy giữa biển khơi, gương mặt cô xám ngắt với vẻ cam chịu của một
người đã sẵn sàng để chết. Anh sẽ làm bất cứ điều gì vì cô, liều mọi thứ, mà
không hề băn khoăn. Anh sẽ trao tặng cô cả cuộc sống của anh, hiến máu của
chính anh dẫn thẳng vào tĩnh mạch cô, nếu điều đó cứu được cô. Và nói đơn giản,
tự hy sinh là một ý niệm mới đối với anh.
Phần kỳ lạ nhất của điều đó là anh không cần phải tự thuyết phục
mình, anh thậm chí còn chẳng muốn. Cách mà anh cảm thấy về Justine là điều anh
không được lựa chọn, y như chuyện anh không được lựa chọn liệu anh có muốn thở
hoặc ngủ hay là ăn hay là không vậy. Còn quá sớm để chắc chắn về điều này,
nhưng cũng chẳng quan trọng.
Những mối quan hệ đã qua của anh kết thúc khi chúng trở nên phiền
phức hoặc nhạt nhẽo. Và sau mỗi lần đó, Jason tiếp bước trên con đường của anh
cùng với niềm tin ngạo mạn rằng tình yêu sẽ chẳng bao giờ trở nên tốt hơn đối với
anh.
Anh thật là một kẻ ngốc.
Bây giờ anh biết rằng chỉ là tình yêu khi bạn biết sẽ không thể
chấm dứt nó. Khi nó quen thuộc như lực hút của trái đất. Rơi vào tình yêu, một
sự rơi không thể ngăn được mà cách duy nhất để tránh bị tổn thương là tiếp tục.
Tiếp tục rơi xuống.
Khi anh gần lên đến đỉnh thang, anh nhìn bao quát ngọn hải đăng.
Thật là một thiết kế vượt thời gian, kết cấu bằng đá vôi và ốp gỗ, với những
hàng hiên bao quanh được gia cường bằng những cột gỗ. Ngọn tháp hình bát giác,
kết hợp với ngôi nhà của người canh giữ, nhìn ra một mái dốc cheo leo nghiêng
xuống và có đầu hồi.
Vượt qua chiếc chuông phủ sương được lắp trên hiên trước, Jason
đẩy vai vượt qua cánh cửa và đóng chúng lại để tránh cơn bão. Anh cởi áo khoác
treo lên móc, và tháo đôi giày đi biển ướt sũng ra. Chiếc áo thun của anh, thứ
anh đã mặc lại trước khi anh xuống cầu tàu, lạnh lẽo và ướt sũng. Chiếc quần
short đi biển thì khô ráo, nhưng anh cảm thấy nhớp nháp và ngâm đầy muối biển.
Mùi thơm của bánh mì nướng điền đầy ngôi nhà, khiến miệng anh ứa nước. Anh đang
đói ngấu.
“Mr.Black.” Sage đổ xô đến anh với một ôm những chiếc khăn trắng
trên tay, những lọn tóc xoăn ánh bạc của bà đu đưa giống như những sợi râu bướm.
“Cậu đây rồi.” Bà rạng rỡ nói.
“Cám ơn bà. Làm ơn gọi tôi là Jason.” Anh chà mạnh chiếc khăn
trên tóc và sau cổ. “Justine thế nào?”
“Cô ấy đã ngủ một cách thoải mái trong phòng ngủ của chúng tôi.
Rosemary đang trông chừng cô ấy.”
“Có lẽ tôi nên kiểm tra cô ấy.” Jason nói, cố đấu tranh với cảm
giác đang siết chặt lồng ngực, một vòng sắt bao quanh trái tim anh. Lo lắng.
Thêm một nét cọ mới nữa trên bức tranh cảm xúc của anh.
“Justine là một cô gái trẻ khoẻ mạnh,” Sage nói dịu dàng. “Nghỉ
ngơi một lát, và cô ấy sẽ hồi phục như thường.” Bà trao cho anh một ánh nhìn nấn
ná như thể thứ gì đó trên gương mặt anh khiến bà ngạc nhiên. “Cậu đã rất can đảm
khi làm những gì cậu đã làm ngày hôm nay. Tôi hiểu điều đó có ý nghĩa gì đối với
một người đàn ông trong tình huống của cậu khi làm một điều rủi ro đến thế.”
Một người đàn ông trong tình huống của anh? Jason bắt giữ ánh mắt
bà, băn khoăn không biết chính xác bà có ý gì.
“Để tôi chỉ cho cậu phòng ngủ dành cho khách,” Sage nói. “Cậu có
thể tắm nước nóng và thay quần áo khô.”
Jason nhăn mặt, “Thật không may, tôi không có áo dự trữ hoặc…”
“Đừng lo, chàng trai thân mến, tôi đã lấy vài thứ thuộc về người
chồng quá cố của tôi. Ông ấy sẽ rất vui vì có ai đó sử dụng chúng.”
“Tôi không muốn…” Jason bắt đầu, không thoải mái trước viễn cảnh
mặc quần áo cũ thuộc về một người đã khuất, nhưng sự chú ý của anh bị mắc lại với
cụm từ ‘chồng quá cố’. “Bà đã kết hôn sao?”
“Phải. Neil là người canh giữ hải đăng ở đây. Sau khi ông ấy qua
đời, tôi đảm đương nhiệm vụ của ông ấy. Đi theo tôi đến phòng dành cho khách
nào – Chúng ta sẽ đi một đường vòng để cậu có thể nhìn bao quát về căn nhà trên
đường đi.”
“Ngọn hải đăng bây giờ không còn hoạt động nữa, đúng không?”
“Không. Sau khi nó bị bỏ không vào những năm bảy mươi trước đây,
Cảnh vệ bờ biển đã bán nó cho tôi gần như chẳng mất gì. Và đổi lại với việc gìn
giữ ngôi nhà, tôi được hưởng trợ cấp từ một quỹ bảo tồn di tích tư nhân. Sau
này cậu phải lên đỉnh tháp đấy – Thấu kính Fresnel nguyên gốc vẫn còn ở đó. Nó
được làm từ pha lê của Pháp. Rất đẹp, giống như một công trình điêu khắc nghệ
thuật vậy.”
Những căn phòng được sơn trong những sắc thái thanh nhã của màu
xanh trứng chim robin và xanh biển, được làm đầy bằng đồ nội thất bọc vải ấm
cúng và những món đồ gỗ được đánh bóng. Phòng chính mở vào một gian bếp lớn và
một phòng nhỏ hơn được sử dụng như một khu vực đa chức năng. “Chỗ này được gọi
là phòng khách,” Sage nói. “Phần lớn thời gian chúng tôi sử dụng nó cho những dự
án nghề thủ công, nhưng khi chúng tôi có khách, chẳng hạn như tối nay, chúng
tôi sẽ đặt thêm một tấm ván lớn trên bàn và biến nó thành phòng ăn tối.”
Jason đi đến góc phòng, nơi có một chiếc mũ lặn cổ xưa bằng đồng
thau đặt trên một chiếc kệ âm tường. Chiếc mũ lặn có gắn kính ở mặt trước, một
cái chốt hình quả tạ gắn dây xích và đinh ghim, và một vòng đai bằng da. “Món đồ
này giống mấy thứ trong truyện của Jules Verne. Nó bao nhiêu tuổi?”
“Nó được chế tạo năm 1918, hoặc khoảng đó.” Sage bật cười kinh
ngạc. “Neil cũng nói điều tương tự khi ông ấy mua nó – Nó nhắc ông ấy nhớ đến
Jules Verne. Cậu có đọc cuốn nào của ông ấy không?”
“Phần lớn.” Jason cười. “Jules Verne bằng cách nào đó đã dự báo
được nhiều phát minh rốt cuộc cũng xảy ra. Tàu ngầm, hội nghị qua truyền hình,
tàu không gian… Tôi không bao giờ có thể quyết định được xem liệu đó là thiên
tài hay pháp thuật.”
Bà có vẻ thích điều đó. “Có lẽ một chút của cả hai.”
Sage chỉ cho anh phòng dành cho khách nằm ở vùng thấp hơn của ngọn
tháp. Đó là một căn phòng như trong truyện cổ tích, hình bát giác với những ô cửa
sổ nhô ra ngoài và những băng ghế bọc nệm đặt trong mỗi bức tường sát bên dưới.
Đồ nội thất duy nhất là một chiếc giường lớn có khung bằng sắt đặt ở giữa phòng
cùng một chiếc bàn nhỏ xíu bằng gỗ ở bên cạnh. Dù căn phòng có thể sẽ lạnh vào
ban đêm, chiếc giường được phủ sắp lớp những chiếc mền bông màu ngà và những
chiếc gối chồng thành ba lớp. Một chiếc áo kín cổ đơn giản và một chiếc quần
dài được đặt trên giường. “Tôi e rằng chúng tôi không có vớ thích hợp với cậu,”
Sage nói với vẻ buồn phiền. “Cho đến khi giày của cậu khô, cậu sẽ phải đi chân
trần thôi.”
“Tôi đi chân trần suốt thời gian ở nhà bà ngoại của tôi tại Nhật
Bản.” Jason nói.
“Cậu có máu Nhật sao?... À, điều đó giải thích cho xương gò má
đó và đôi mắt sẫm màu đáng yêu của cậu.”
Anh cười lặng lẽ. “Bà thật thích bông đùa, Sage.”
“Ở tuổi tôi, tôi có thể bông đùa mọi thứ mà tôi hài lòng mà
không gây ra bất kỳ rắc rối nào.”
“Tôi nghĩ bà có thể thừa sức gây rắc rối nếu bà muốn.”
Sage cười lục cục. “Bây giờ ai mới là người thích bông đùa đây?”
bà ra hiệu về cái phòng tắm với một vòi sen kiểu cổ. “Các vật dụng phòng tắm
dành cho khách ở trong một cái rổ bên dưới bồn rửa tay. Có đủ thời gian để cậu
chợp mắt một lúc – cậu có thể ngon giấc ở trên đây mà không bị ai quấy rầy.”
“Cám ơn, nhưng tôi không quen lấy những giấc ngủ ngắn.”
“Cậu nên thử xem sao. Cậu hẳn là đã mệt sau những hành vi anh
hùng của cậu hôm nay.”
“Cháu không phải anh hùng.” Jason nói, không thoải mái trước lời
tâng bốc. “Cháu chỉ làm những gì cần thiết thôi.”
Bà mỉm cười với anh. “Đó không phải là định nghĩa về một người
hùng sao?”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét