Thứ Ba, 7 tháng 10, 2014

Crystal Cove 2.


CHƯƠNG HAI.

Khi dọn dẹp những bàn ăn điểm tâm, Justine dừng lại chuyện vãn với vài người khách trọ. Có một đôi luống tuổi từ Victoria, một cặp trăng mật từ Wyoming, và một gia đình bốn người đến từ Airzona.
Gia đình có hai cậu con trai nhỏ đang ngấu nghiến bánh pancake bí ngô của Zoe. Hai cậu bé là một cặp cách nhau chừng một tuổi, cả hai là những cơn lốc nhỏ chờ đợi được thả rông.
“Bữa sáng thế nào?” Justine hỏi đám nhóc.
“Tuyệt.” Cậu bé lớn hơn nói.
Cậu bé nhỏ hơn trả lời với một miệng đầy bánh. “Sy-rô có hương vị phi thường.”
Cậu đã đổ đầy dĩa của mình đến nỗi bánh pancake gần như nổi lềnh phềnh. Một lọn tóc dính keo phủ ở trước mặt, và một nhúm khác ở bên cạnh đầu.
Justine cười. “Chắc chắn rồi, vì nó là đồ thật mà. Phần lớn si-rô pancake được mua từ các cửa hàng không phải từ cây thích. Chúng là thứ si-rô bắp và hương liệu.”
“Em thích thứ đó hơn.” Cậu bé nói với cái miệng đầy bánh.
“Hudson,” Mẹ cầu bé khiển trách, “coi cách cư xử của con kìa.” Bà ngước nhìn Justine với vẻ xin lỗi. “Nó thật lộn xộn quá.”
“Không có vấn đề gì đâu.” Justine nói và ra hiệu về chiếc dĩa trống. “Tôi có thể mang chúng đi không?”
“Vâng, cám ơn.” Người phụ nữ hướng sự chú ý trở lại với các cậu bé trong lúc Justine mang những chiếc dĩa và ly đi. Cha của các cậu bé đang nói chuyện trong cellphone, ngừng ngang cuộc điện đàm đủ lâu để nói với Justine. “Lấy của tôi luôn. Và mang cho tôi ít trà nhé. Loại Earl Grey, với sữa không béo. Làm nhanh nhé – Chúng tôi phải đi ngay.”
“Được ạ” Justine nói với vẻ dễ thương. “Tôi có nên dùng loại ly để mang theo không ạ?”
Ông ta đáp bằng cái gật nhẹ và ậm ừ, rồi quay trở lại cuộc điện đàm.
Khi Justine vào bếp cùng những chiếc dĩa, ai đó tiến vào ngưỡng cửa phòng ăn tối.
“Xin thứ lỗi.” Người vừa nói là một phụ nữ trẻ trong bộ váy đen ôm sát và đôi giày nhảy đế cao trung bình dễ nhận thấy, mái tóc màu đồng đỏ cắt kiểu chấm vai hoàn hảo. Cô có thân hình đẹp và đôi mắt màu xanh rực rỡ. Cô không mang nữ trang ngoại trừ một sợi dây chuyền vàng xinh xắn vòng quanh cổ. Vẻ ngoài của cô ấy khiến Justine nghĩ đến trọng âm rin rít kiểu Anh. Thay vì thế, cô nói giọng vùng Tây Vỉginia lè nhè như được lọc qua lớp dầu nhờn. “Tôi đến để làm thủ tục nhận phòng, nhưng không có ai trong văn phòng.”
“Sorry.” Justine nói. “Chúng ta chỉ hý hoái một lát là xong ngay ấy mà. Sáng nay tôi bận giúp phục vụ điểm tâm. Và chị cùng nhóm của chị định đến trong hôm nay sao?”
Một cái gật thận trọng. “Tập đoàn Inari. Tôi là Priscilla Fiveash.”
Justine nhận ra cái tên. Cô ấy là trợ lý hành chính, người đảm đương việc làm thủ tục sớm cho Jason Black và tuỳ tùng của anh ta. “Tôi sẽ xong trong khoảng mười phút nữa. Chị có muốn một tách cafe trong lúc đợi không?”
“Không. Cám ơn.” Người phụ nữ trẻ có vẻ cảnh giác nhiều hơn thân thiện, cảm xúc của cô ấy thắt chặt trong một cái gút đôi. “Có chỗ nào để tôi có thể gọi vài cuộc gọi riêng tư không?”
“Chắc chắn rồi. Chị có thể sử dụng văn phòng của tôi. Nó không khoá.”
“Cám ơn.”
Cha các cậu bé cáu kỉnh hỏi từ bàn điểm tâm . “Trà của tôi đâu?”
“Đến ngay.” Justine cam đoan với ông ta. Nhưng trước khi cô rời khỏi phòng, cô ngừng lại để nói với người phụ nữ. “Fiveash... Đó là một cái họ không thông dụng. Người Anh, Ai-len?”
“Tôi sẽ nói nó có nguồn gốc Anh. Một ngôi làng không thể tìm thấy nữa, với năm cây tần bì ở giữa làng.” (Five-ash : năm cây tần bì.)
Nghe có vẻ giống một cái họ Tradition. (Tradition : Truyền thống. Ở đây, ý của Tác giả muốn nhấn mạnh về nhóm các gia tộc mang tính huyền bí. – Ct của Sẻ) Cây tần bì (Ask) cao lớn mạnh mẽ gần như cây sồi (Oak). Và Five là con số hết sức đặc biệt trong cộng đồng pháp thuật, dấu hiệu đặc trưng của họ là ngôi sao năm cánh chứa trong một vòng tròn. Cho dù Justine bị cám dỗ muốn hỏi thêm, cô chỉ cười và tiến về khu bếp.
Một lúc sau, Cô nghe tiếng chuông báo hiệu từ phòng ăn tối. Người mẹ đang la khóc, tiếng loảng xoảng từ những chiếc dĩa và dao nĩa, tiếng một chiếc ghế bị đổ nhào. Ngay lập tức xoay người, Justine vội vã quay lại và dồn đống những mảnh dĩa vỡ lên trên bàn.
Cậu bé nhỏ hơn đang bị mắc nghẹn. Đôi mắt cậu mở rộng và trắng dã với nỗi sợ, đôi tay cào vào cổ họng. Người mẹ vỗ vỗ lưng cậu với vẻ bất lực.
Priscilla vươn tay ôm lấy cậu bé. Khoá cánh tay cô quanh cậu từ phía sau, cô đẩy mạnh nắm tay cô hướng lên trên và vào trong bằng một động tác đột ngột. Trình tự đó được lập lại ba lần, nhưng vật gây tắc nghẽn không bị trục ra. Khuôn mặt cậu bé tái xám, môi cậu co cứng.
“Cô đang làm đau cháu.” Bà mẹ khóc. “Dừng lại... Cô ấy đang làm đau nó...”
“Nó đang bị mắc nghẹn.” Cha cậu bé cáu kỉnh. Nắm tay ông cuộn lại khi ông quan sát Priscilla. “Cô có biết cô đang làm quái quỷ gì không vậy?”
Priscilla không trả lời. Miệng cô ấy mím chặt, gương mặt trắng bợt ngoại trừ hai mảnh màu đỏ trên gò má. Ánh mắt cô bắt gặp mắt của Justine. “Không được rồi.” Cô nói. “Hẳn là bị mắc kẹt suốt chiều dài thực quản.”
“Gọi 911 đi.”
Trong lúc Priscilla chộp lấy túi xách của của cô ấy ở gần đó và lục lọi tìm điện thoại. Justine thế chỗ cô ở phía sau thân hình nặng nề của cậu bé. Cô thử làm vài cú xóc góc độ sâu hướng lên trên từ bụng trên của cậu bé, và lầm rầm vài từ bên dưới hơi thở. “Sylph của không khí, ta triệu hồn người, hãy giúp cậu bé thở. Chuyện nhỏ như con thỏ.”
Nút nghẽn bằng thức ăn đột ngột bật ra. Cậu bé ngừng quằn quại và bắt đầu kéo vào những hơi thở sâu. Cả hai cha mẹ chạy xô đến và kéo cậu vào lòng, người mẹ nức nở với vẻ biết ơn.
Justine vuốt lại túm tóc ra sau và thả nó xuống trong một túm đuôi ngựa. Cô buông ra một hơi thở không đều, cố làm im lặng nhịp điệu đang khua lách cách trong trái tim cô.
Đôi giày nhảy màu đen bằng da của Priscilla tiến vào phạm vi tầm nhìn của cô. Justine ngước nhìn lên với nụ cười yếu ớt. Sự cứu viện đã hút cạn sức mạnh của cô cho đến khi cô mềm oặt như chiếc vỏ gối trên dây phơi.
Đôi mắt xanh màu đá mặt trăng nhìn cô chăm chú. “Cô có cách thật vui nhộn trong việc cấp cứu Heimlich* đấy nhỉ.” Priscilla nói.
(*The Heimlich : Một kỹ thuật xóc vào bụng để ngăn chặn nghẹt thở, được một bác sĩ chuyên phẫu thuật lồng ngực của Mỹ công bố năm 1974, bác sĩ Henry Heimlich, nên sau đó pp này được đặt tên theo tên ông. – Ct của Sẻ)

***

Sau khi cuộc chấn động đã yên ổn và bữa sáng đã được dọn dẹp, Justine ngồi cùng Priscilla trong văn phòng nhỏ. Toàn bộ nhà trọ được thuê trọn trong năm ngày kế tiếp cho nửa tá nhân viên và đồng sự của Tập đoàn Inary Gaming, một nhóm chuyên viên làm việc tại gia của công ty phần mềm trọng điểm. Phần còn lại của quán trọ sẽ để trống dù cho chúng đã được trả tiền.
“Jason thích sự riêng tư.” Priscilla giải thích về một điều hầu như chẳng có gì phải ngạc nhiên. Jason Black, người đã lập ra một trò chơi siêu tưởng trên video thành công nhất từng được biết, rõ ràng là một người hay lảng tránh. Anh không bao giờ có mặt trong những sự kiện quảng bá. Anh đã bác bỏ hấu hết những yêu cầu phỏng vấn của giới truyền thông, và chỉ thỉnh thoảng đồng ý cho phỏng vấn báo giấy với quy định không thảo luận về đời sống cá nhân và không cho phép đưa hình ảnh của anh.
Sự thực là, Justine, Zoe, và hai phụ nữ giúp dọn dẹp quán trọ đã bị yêu cầu phải ký kết giao kèo không tiết lộ trước đó rồi. Kết quả là, họ bị cấm để lộ những chi tiết về Jason Black theo luật pháp. Chỉ cần họ tiết lộ về màu sắc đôi vớ của anh thôi, thì họ sẽ bị kiện ra toà cho đến thế kỷ kế tiếp.
Sau khi gõ tên anh vào vài trình duyệt tìm kiếm trên internet, Justine tìm thấy hàng đống thứ về công ty trò chơi và những thành tựu của nó, nhưng chỉ có lơ thơ một nhúm sự kiện về bản thân anh. Anh sinh trưởng ở California và theo học tại USC (University of South Carolina. Hai bang này cách nhau xa lắc luôn, tận hai đầu nước Mỹ theo chiều ngang. – Ct của Sẻ) nhờ học bổng bóng bầu dục. Vào giữa năm học thứ hai, anh rời khỏi trường và biến mất tăm, ở nơi quái quỷ nào đó, rồi sống tại thiền viện Zen gần khu bảo tồn rừng quốc gia Los Padres. Anh biến khỏi radar trong đôi năm và không bao giờ quay lại trường. Cuối cùng anh nộp đơn xin việc tại bộ phận phát triển game của một công ty phần mềm. Sau vài thành công, anh nhận một công việc khác trong Inary, đứng đầu bộ phận thiết kế trò chơi điện tử của công ty, và anh trở thành trưởng dự án phát triển series trò chơi bán chạy nhất mọi thời đại.
Trong chừng mực được hé lộ về đời sống cá nhân của jason Black, có vài mối quan hệ kín đáo, nhưng anh chưa bao giờ đính ước hoặc kết hôn. Có vài tấm ảnh chụp lén của anh trên Net, đang bước ra và vào xe, hộ tống ai đó đến buổi hội họp mang tính xã hội, nhưng gương mặt anh ngoảnh đi trong phần lớn các bức ảnh đó, vẻ chán ghét của anh trước ống kính thật rõ ràng. Cú bấm máy tốt nhất về anh lại bị nhoà.
“Sao anh ấy lại e ngại sự công khai đến thế?” Justine hỏi Priscella.
“Cô có thể hỏi, nhưng tôi không thể nói.”
“Anh ấy có tốt không?”
“Quá nhiều về những thứ tốt đẹp mà anh ấy sở hữu.” Priscilla nói với vẻ ảm đạm.
Chân mày của Justine nhướng lên. “Chị có tình ý với anh ấy sao?”
Cơn giận ngắn ngủi trong tiếng bật cười của Priscilla chẳng có gì thú vị . “Không bao giờ. Công việc của tôi quá quan trong đối với tôi... Tôi không bao giờ mạo hiểm chúng vì bất kỳ thứ gì. Hơn nữa anh ấy và tôi không hợp nhau.”
“Tại sao không?”
Priscilla bắt đầu đánh dấu các lý do trên những ngón tay. “Anh ấy quá chuyên quyền. Và cơ bản thì tôi không tin anh ấy vừa với giày trái của tôi.” (hehehe nàng lọ lem Cinderell thử giày bằng chân trái sao? – Sẻ) Cô kéo chiếc máy tính bảng ra khỏi cặp hồ sơ và tìm một tập tin. “Đây là danh sách cập nhật cho phòng của Jason. Chúng ta hãy cùng thông qua nó.”
“Chúng đã được quan tâm rồi. Chị đã e-mail danh sách cập nhật này cho tôi cách đây vài ngày.”
“Đây là danh sách cập nhật đã được cập nhật.”
Jason Black yêu cầu một phòng tầng hai nhìn ra hướng tây có nhiệt độ 68 độ (là độ F nhé, tương đương 20 độ C – Sẻ). Một chiếc giường cỡ đại với khăn trải giường ren rua kiểu quý tộc, gối lông ngỗng không dùng lông vũ. Hai chai nước suối lạnh mang đến phòng mỗi buổi sáng, cùng với sữa trứng lắc tốt cho sức khoẻ. Anh cũng yêu cầu hai chiếc khăn tắm màu trắng mỗi ngày. Xà bông tắm và dầu gội không mùi. Một chiếc đèn LED để bàn, truy cập wireless, một bình hoa màu trắng, và một gói đựng đồ bịt tai bằng foam trên bàn đầu giường. Trái cây được trồng hữu cơ không nhúng sáp được tuyển chọn. Không báo hoặc tạp chí – anh thích hình thức điện tử hơn. Và vào 9 giờ mỗi đêm, hai shot* rượu vodka ướp lạnh được mang đến phòng cho anh.
(*Shot : đơn vị tính cho một lượt rót rượu mạnh, khoảng 2oz, chẳng biết dịch thế nào, vì dân mình đâu có uống rượu kiểu này đâu – Ct của Sẻ)
“Tại sao là hai?” Justine hỏi.
Priscilla nhún vai. “Tôi không thường hỏi Jason tại sao anh ta muốn thứ gì đó. Nó khiến anh ấy khó chịu, và dù sao thì anh ta cũng chẳng bao giờ giải thích.”
“Thật tốt để biết.” Justine quay sự chú ý trở lại bản danh sách. “Tôi nghĩ tôi làm được mọi thứ trong bảng danh sách này. Ngoại trừ khoản hoa. Loại hoa màu trắng nào đây? Cúc? Lily?”
“Điều đó tuỳ cô. Dù vậy, đừng dùng loại có hương nồng nhé.”
“Tôi có thêm một câu hỏi. Chị có biết mỗi phòng trong quán trọ này được trang trí để tỏ lòng kính trọng một nghệ sĩ khác nhau không? Có hai phòng ở tầng hai nhìn ra hướng tây. Một là phòng Roy Lichtenstein, và phòng kia là Gustav Klimt. Chị nghĩ Mr. Black sẽ thích phòng nào hơn?”
Nhét lọn tóc màu đồng đỏ ra sau tai, Priscilla cân nhắc câu hỏi. “Với tôi, chúng nghe có vẻ giống như cô đang nói về mấy thứ thuốc kháng sinh ấy.” Cô ấy nói. “Cô có thể nói rõ hơn về chúng không? Tôi biết về nghệ thuật cũng ngang bằng với nước sốt táo.”
Justine thích tính ngay thẳng của cô ấy. “Roy Lichtenstein là một nghệ sĩ theo trường phái pop-art của Mỹ. Những bức hoạ nổi tiếng nhất của ông trông giống như tranh biếm hoạ, với chữ viết và những quả bóng ý tưởng. Tác phẩm của ông thiên về châm biếm nhiều hơn là cảm xúc. Klimt, đối nghịch lại, có thiên hướng về nhục dục. Ông ấy là một hoạ sĩ người Áo từ những năm 1800s, và phong cách của ông được gọi là Art Nouveau, với những nét vẽ ngẫu hứng về đường kẻ và đường cong theo như những hoa văn gỗ lát sàn của người Nhật. Bức hoạ nổi tiếng nhất của ông là bức Nụ Hôn – có một bản in được treo trong phòng. Vậy... phòng nào sẽ phù hợp ngài Black đây? Lichtenstein hay Klimt?”
Priscilla cau mày.
Justine kiên nhẫn đợi.
“Klimt.” Cuối cùng, người phụ nữ nói, mắt cô ấy nheo lại. “Nhưng không được nói bất cứ điều gì về việc đó.”
“Tôi đã ký bản hợp đồng không tiết lộ rồi.” Justine nhắc cô ta. “Nhưng cho dù không có bản hợp đồng đó, chị cũng không cần thiết phải lo lắng. Tôi rất giỏi với việc giữ bí mật.”
“Tôi cũng hình dung như thế.” Sau khoảng dừng cân nhắc, Priscilla bắn thẳng vào cô cái nhìn trực diện và hỏi. “Nhân tiện, Sylph là gì vậy?”
Vậy ra cô ấy đã nghe thấy câu thần chú. Justine trả lời bất chợt. “Một tinh thần siêu nhiên đại diện cho không khí. Có một vị khác đại diện cho đất, một vị khác nữa cho nước, vân vân...”
“Cô là một trong những loại ôm-gốc-cây đó sao?”
Justine cười. “Tôi không bao giờ ôm một cái cây nào theo đúng ngữ nghĩa, nhưng tôi phát hiện ra chúng là những thính giả tuyệt vời. Niềm tin của cô là gì?”
“Tôi được nuôi dưỡng bởi những thiên thần của giáo đoàn lửa.”
“Tôi không quen thuộc với kiểu đó.”
“Họ thuyết giáo về việc kiêng khem tình dục và ngày tận thế. Và các mục sư của chúng tôi tin rằng quỷ Satan đã đặt khủng long hoá thạch vào trong đất cho đám loài người đáng thương.” Không chút kiêu hãnh, Priscilla nói thêm, “Tôi đã bị yểm trừ hai lần trước khi tôi lên mười lăm.”
“Thật sao? Vì cái gì?”
“Tôi bị bắt quả tang đang nghe nhạc rock.”
“Cả hai lần sao?”
“Lần đầu tiên không tính.” Priscilla nhừng lại khi tiếng chuông điện thoại vang lên sâu bên trong túi xách của cô ấy. “Thứ lỗi.” Cô kéo phone ra và nhìn xuống màn hình nhỏ xíu. “Tôi có vài e-mail và tin nhắn cần phải quan tâm.”
“Cứ ở lại văn phòng đi, nếu chị thích. Tôi sẽ chuẩn bị một phòng sẵn sàng cho chị.”
“Cám ơn. Nếu cô không phiền, tôi muốn nhận chìa khoá của tất cả các phòng một lượt khi chúng sẵn sàng.”
“Được. Thông thường thì tôi sẽ hướng dẫn khách đến phòng của họ khi họ đến.”
“Jason muốn tôi quan tâm đến điều đó. Anh ấy không thích chuyện trò nhiều.”
“Không sao. Tôi sẽ tránh đường khi họ đến đây.”
“Cám ơn.” Đầu của Priscilla cúi xuống trên chiếc điện thoại khi cô ấy bắt đầu nhắn tin. “Cô định dành phòng nào cho tôi thế?” Cô ấy hỏi mà không nhìn lên.
“Phòng Degas” Justine nói. “Một hoạ sĩ theo trường phái ấn tượng người Pháp đã vẽ bức Múa ballet. Đó không phải là phòng lớn nhất, nhưng là phòng xinh xắn nhất. Rất nhiều ren trắng và hoa hồng màu hồng nhạt, và một ngọn chúc đài pha lê.
Priscilla vẫn không ngừng nhắn tin. “Điều gì khiến cô nghĩ tôi sẽ thích căn phòng nữ tính đó?”
“Bởi vì tôi đã nhìn thấy hình nền trên máy tính bảng của cô.” Justine nhướng chân mày thành đôi vòng cung trêu chọc. “Một hàng mèo con kitty đang ngồi trên cây đàn piano? Đúng không?”
Khi ánh mắt chưng hửng của người phụ nữ gặp ánh mắt cô, Justine bật cười lặng lẽ. “Đừng lo, tôi sẽ không nói ra đâu.”

Không có nhận xét nào: