CHƯƠNG HAI.
Khi dọn dẹp
những bàn ăn điểm tâm, Justine dừng lại chuyện vãn với vài người khách trọ. Có
một đôi luống tuổi từ Victoria, một cặp trăng mật từ Wyoming, và một gia đình bốn
người đến từ Airzona.
Gia đình có
hai cậu con trai nhỏ đang ngấu nghiến bánh pancake bí ngô của Zoe. Hai cậu bé
là một cặp cách nhau chừng một tuổi, cả hai là những cơn lốc nhỏ chờ đợi được
thả rông.
“Bữa sáng
thế nào?” Justine hỏi đám nhóc.
“Tuyệt.” Cậu
bé lớn hơn nói.
Cậu bé nhỏ
hơn trả lời với một miệng đầy bánh. “Sy-rô có hương vị phi thường.”
Cậu đã đổ đầy
dĩa của mình đến nỗi bánh pancake gần như nổi lềnh phềnh. Một lọn tóc dính keo
phủ ở trước mặt, và một nhúm khác ở bên cạnh đầu.
Justine cười.
“Chắc chắn rồi, vì nó là đồ thật mà. Phần lớn si-rô pancake được mua từ các cửa
hàng không phải từ cây thích. Chúng là thứ si-rô bắp và hương liệu.”
“Em thích
thứ đó hơn.” Cậu bé nói với cái miệng đầy bánh.
“Hudson,” Mẹ
cầu bé khiển trách, “coi cách cư xử của con kìa.” Bà ngước nhìn Justine với vẻ
xin lỗi. “Nó thật lộn xộn quá.”
“Không có vấn
đề gì đâu.” Justine nói và ra hiệu về chiếc dĩa trống. “Tôi có thể mang chúng
đi không?”
“Vâng, cám
ơn.” Người phụ nữ hướng sự chú ý trở lại với các cậu bé trong lúc Justine mang
những chiếc dĩa và ly đi. Cha của các cậu bé đang nói chuyện trong cellphone,
ngừng ngang cuộc điện đàm đủ lâu để nói với Justine. “Lấy của tôi luôn. Và mang
cho tôi ít trà nhé. Loại Earl Grey, với sữa không béo. Làm nhanh nhé – Chúng
tôi phải đi ngay.”
“Được ạ”
Justine nói với vẻ dễ thương. “Tôi có nên dùng loại ly để mang theo không ạ?”
Ông ta đáp
bằng cái gật nhẹ và ậm ừ, rồi quay trở lại cuộc điện đàm.
Khi Justine
vào bếp cùng những chiếc dĩa, ai đó tiến vào ngưỡng cửa phòng ăn tối.
“Xin thứ lỗi.”
Người vừa nói là một phụ nữ trẻ trong bộ váy đen ôm sát và đôi giày nhảy đế cao
trung bình dễ nhận thấy, mái tóc màu đồng đỏ cắt kiểu chấm vai hoàn hảo. Cô có
thân hình đẹp và đôi mắt màu xanh rực rỡ. Cô không mang nữ trang ngoại trừ một
sợi dây chuyền vàng xinh xắn vòng quanh cổ. Vẻ ngoài của cô ấy khiến Justine
nghĩ đến trọng âm rin rít kiểu Anh. Thay vì thế, cô nói giọng vùng Tây Vỉginia
lè nhè như được lọc qua lớp dầu nhờn. “Tôi đến để làm thủ tục nhận phòng, nhưng
không có ai trong văn phòng.”
“Sorry.”
Justine nói. “Chúng ta chỉ hý hoái một lát là xong ngay ấy mà. Sáng nay tôi bận
giúp phục vụ điểm tâm. Và chị cùng nhóm của chị định đến trong hôm nay sao?”
Một cái gật
thận trọng. “Tập đoàn Inari. Tôi là Priscilla Fiveash.”
Justine nhận
ra cái tên. Cô ấy là trợ lý hành chính, người đảm đương việc làm thủ tục sớm
cho Jason Black và tuỳ tùng của anh ta. “Tôi sẽ xong trong khoảng mười phút nữa.
Chị có muốn một tách cafe trong lúc đợi không?”
“Không. Cám
ơn.” Người phụ nữ trẻ có vẻ cảnh giác nhiều hơn thân thiện, cảm xúc của cô ấy
thắt chặt trong một cái gút đôi. “Có chỗ nào để tôi có thể gọi vài cuộc gọi
riêng tư không?”
“Chắc chắn rồi.
Chị có thể sử dụng văn phòng của tôi. Nó không khoá.”
“Cám ơn.”
Cha các cậu
bé cáu kỉnh hỏi từ bàn điểm tâm . “Trà của tôi đâu?”
“Đến ngay.”
Justine cam đoan với ông ta. Nhưng trước khi cô rời khỏi phòng, cô ngừng lại để
nói với người phụ nữ. “Fiveash... Đó là một cái họ không thông dụng. Người Anh,
Ai-len?”
“Tôi sẽ nói
nó có nguồn gốc Anh. Một ngôi làng không thể tìm thấy nữa, với năm cây tần bì ở
giữa làng.” (Five-ash : năm cây tần bì.)
Nghe có vẻ
giống một cái họ Tradition. (Tradition : Truyền thống. Ở đây, ý của Tác giả
muốn nhấn mạnh về nhóm các gia tộc mang tính huyền bí. – Ct của Sẻ)
Cây tần bì (Ask) cao lớn mạnh mẽ gần như cây sồi (Oak). Và Five là con số hết sức
đặc biệt trong cộng đồng pháp thuật, dấu hiệu đặc trưng của họ là ngôi sao năm
cánh chứa trong một vòng tròn. Cho dù Justine bị cám dỗ muốn hỏi thêm, cô chỉ
cười và tiến về khu bếp.
Một lúc
sau, Cô nghe tiếng chuông báo hiệu từ phòng ăn tối. Người mẹ đang la khóc, tiếng
loảng xoảng từ những chiếc dĩa và dao nĩa, tiếng một chiếc ghế bị đổ nhào. Ngay
lập tức xoay người, Justine vội vã quay lại và dồn đống những mảnh dĩa vỡ lên
trên bàn.
Cậu bé nhỏ
hơn đang bị mắc nghẹn. Đôi mắt cậu mở rộng và trắng dã với nỗi sợ, đôi tay cào
vào cổ họng. Người mẹ vỗ vỗ lưng cậu với vẻ bất lực.
Priscilla
vươn tay ôm lấy cậu bé. Khoá cánh tay cô quanh cậu từ phía sau, cô đẩy mạnh nắm
tay cô hướng lên trên và vào trong bằng một động tác đột ngột. Trình tự đó được
lập lại ba lần, nhưng vật gây tắc nghẽn không bị trục ra. Khuôn mặt cậu bé tái
xám, môi cậu co cứng.
“Cô đang
làm đau cháu.” Bà mẹ khóc. “Dừng lại... Cô ấy đang làm đau nó...”
“Nó đang bị
mắc nghẹn.” Cha cậu bé cáu kỉnh. Nắm tay ông cuộn lại khi ông quan sát
Priscilla. “Cô có biết cô đang làm quái quỷ gì không vậy?”
Priscilla
không trả lời. Miệng cô ấy mím chặt, gương mặt trắng bợt ngoại trừ hai mảnh màu
đỏ trên gò má. Ánh mắt cô bắt gặp mắt của Justine. “Không được rồi.” Cô nói. “Hẳn
là bị mắc kẹt suốt chiều dài thực quản.”
“Gọi 911
đi.”
Trong lúc
Priscilla chộp lấy túi xách của của cô ấy ở gần đó và lục lọi tìm điện thoại.
Justine thế chỗ cô ở phía sau thân hình nặng nề của cậu bé. Cô thử làm vài cú
xóc góc độ sâu hướng lên trên từ bụng trên của cậu bé, và lầm rầm vài từ bên dưới
hơi thở. “Sylph của không khí, ta triệu hồn người, hãy giúp cậu bé thở. Chuyện
nhỏ như con thỏ.”
Nút nghẽn bằng
thức ăn đột ngột bật ra. Cậu bé ngừng quằn quại và bắt đầu kéo vào những hơi thở
sâu. Cả hai cha mẹ chạy xô đến và kéo cậu vào lòng, người mẹ nức nở với vẻ biết
ơn.
Justine vuốt
lại túm tóc ra sau và thả nó xuống trong một túm đuôi ngựa. Cô buông ra một hơi
thở không đều, cố làm im lặng nhịp điệu đang khua lách cách trong trái tim cô.
Đôi giày nhảy
màu đen bằng da của Priscilla tiến vào phạm vi tầm nhìn của cô. Justine ngước
nhìn lên với nụ cười yếu ớt. Sự cứu viện đã hút cạn sức mạnh của cô cho đến khi
cô mềm oặt như chiếc vỏ gối trên dây phơi.
Đôi mắt
xanh màu đá mặt trăng nhìn cô chăm chú. “Cô có cách thật vui nhộn trong việc cấp
cứu Heimlich* đấy nhỉ.” Priscilla nói.
(*The Heimlich : Một kỹ thuật
xóc vào bụng để ngăn chặn nghẹt thở, được một bác sĩ chuyên phẫu thuật lồng ngực
của Mỹ công bố năm 1974, bác sĩ Henry Heimlich, nên sau đó pp này được đặt tên
theo tên ông. – Ct của Sẻ)
***
Sau khi cuộc
chấn động đã yên ổn và bữa sáng đã được dọn dẹp, Justine ngồi cùng Priscilla
trong văn phòng nhỏ. Toàn bộ nhà trọ được thuê trọn trong năm ngày kế tiếp cho
nửa tá nhân viên và đồng sự của Tập đoàn Inary Gaming, một nhóm chuyên viên làm
việc tại gia của công ty phần mềm trọng điểm. Phần còn lại của quán trọ sẽ để
trống dù cho chúng đã được trả tiền.
“Jason
thích sự riêng tư.” Priscilla giải thích về một điều hầu như chẳng có gì phải
ngạc nhiên. Jason Black, người đã lập ra một trò chơi siêu tưởng trên video
thành công nhất từng được biết, rõ ràng là một người hay lảng tránh. Anh không
bao giờ có mặt trong những sự kiện quảng bá. Anh đã bác bỏ hấu hết những yêu cầu
phỏng vấn của giới truyền thông, và chỉ thỉnh thoảng đồng ý cho phỏng vấn báo
giấy với quy định không thảo luận về đời sống cá nhân và không cho phép đưa
hình ảnh của anh.
Sự thực là,
Justine, Zoe, và hai phụ nữ giúp dọn dẹp quán trọ đã bị yêu cầu phải ký kết
giao kèo không tiết lộ trước đó rồi. Kết quả là, họ bị cấm để lộ những chi tiết
về Jason Black theo luật pháp. Chỉ cần họ tiết lộ về màu sắc đôi vớ của anh
thôi, thì họ sẽ bị kiện ra toà cho đến thế kỷ kế tiếp.
Sau khi gõ
tên anh vào vài trình duyệt tìm kiếm trên internet, Justine tìm thấy hàng đống
thứ về công ty trò chơi và những thành tựu của nó, nhưng chỉ có lơ thơ một nhúm
sự kiện về bản thân anh. Anh sinh trưởng ở California và theo học tại USC (University of South Carolina. Hai bang này cách nhau xa lắc luôn, tận hai
đầu nước Mỹ theo chiều ngang. – Ct của Sẻ) nhờ học bổng
bóng bầu dục. Vào giữa năm học thứ hai, anh rời khỏi trường và biến mất tăm, ở
nơi quái quỷ nào đó, rồi sống tại thiền viện Zen gần khu bảo tồn rừng quốc gia
Los Padres. Anh biến khỏi radar trong đôi năm và không bao giờ quay lại trường.
Cuối cùng anh nộp đơn xin việc tại bộ phận phát triển game của một công ty phần
mềm. Sau vài thành công, anh nhận một công việc khác trong Inary, đứng đầu bộ
phận thiết kế trò chơi điện tử của công ty, và anh trở thành trưởng dự án phát
triển series trò chơi bán chạy nhất mọi thời đại.
Trong chừng
mực được hé lộ về đời sống cá nhân của jason Black, có vài mối quan hệ kín đáo,
nhưng anh chưa bao giờ đính ước hoặc kết hôn. Có vài tấm ảnh chụp lén của anh
trên Net, đang bước ra và vào xe, hộ tống ai đó đến buổi hội họp mang tính xã hội,
nhưng gương mặt anh ngoảnh đi trong phần lớn các bức ảnh đó, vẻ chán ghét của
anh trước ống kính thật rõ ràng. Cú bấm máy tốt nhất về anh lại bị nhoà.
“Sao anh ấy
lại e ngại sự công khai đến thế?” Justine hỏi Priscella.
“Cô có thể
hỏi, nhưng tôi không thể nói.”
“Anh ấy có
tốt không?”
“Quá nhiều
về những thứ tốt đẹp mà anh ấy sở hữu.” Priscilla nói với vẻ ảm đạm.
Chân mày của
Justine nhướng lên. “Chị có tình ý với anh ấy sao?”
Cơn giận ngắn
ngủi trong tiếng bật cười của Priscilla chẳng có gì thú vị . “Không bao giờ.
Công việc của tôi quá quan trong đối với tôi... Tôi không bao giờ mạo hiểm
chúng vì bất kỳ thứ gì. Hơn nữa anh ấy và tôi không hợp nhau.”
“Tại sao
không?”
Priscilla bắt
đầu đánh dấu các lý do trên những ngón tay. “Anh ấy quá chuyên quyền. Và cơ bản
thì tôi không tin anh ấy vừa với giày trái của tôi.” (hehehe nàng lọ lem Cinderell thử giày bằng chân trái sao? – Sẻ) Cô
kéo chiếc máy tính bảng ra khỏi cặp hồ sơ và tìm một tập tin. “Đây là danh sách
cập nhật cho phòng của Jason. Chúng ta hãy cùng thông qua nó.”
“Chúng đã
được quan tâm rồi. Chị đã e-mail danh sách cập nhật này cho tôi cách đây vài
ngày.”
“Đây là
danh sách cập nhật đã được cập nhật.”
Jason Black
yêu cầu một phòng tầng hai nhìn ra hướng tây có nhiệt độ 68 độ (là độ F nhé, tương đương 20 độ C – Sẻ). Một chiếc
giường cỡ đại với khăn trải giường ren rua kiểu quý tộc, gối lông ngỗng không
dùng lông vũ. Hai chai nước suối lạnh mang đến phòng mỗi buổi sáng, cùng với sữa
trứng lắc tốt cho sức khoẻ. Anh cũng yêu cầu hai chiếc khăn tắm màu trắng mỗi
ngày. Xà bông tắm và dầu gội không mùi. Một chiếc đèn LED để bàn, truy cập
wireless, một bình hoa màu trắng, và một gói đựng đồ bịt tai bằng foam trên bàn
đầu giường. Trái cây được trồng hữu cơ không nhúng sáp được tuyển chọn. Không
báo hoặc tạp chí – anh thích hình thức điện tử hơn. Và vào 9 giờ mỗi đêm, hai
shot* rượu vodka ướp lạnh được mang đến
phòng cho anh.
(*Shot : đơn vị tính cho một
lượt rót rượu mạnh, khoảng 2oz, chẳng biết dịch thế nào, vì dân mình đâu có uống
rượu kiểu này đâu – Ct của Sẻ)
“Tại sao là
hai?” Justine hỏi.
Priscilla
nhún vai. “Tôi không thường hỏi Jason tại sao anh ta muốn thứ gì đó. Nó khiến
anh ấy khó chịu, và dù sao thì anh ta cũng chẳng bao giờ giải thích.”
“Thật tốt để
biết.” Justine quay sự chú ý trở lại bản danh sách. “Tôi nghĩ tôi làm được mọi
thứ trong bảng danh sách này. Ngoại trừ khoản hoa. Loại hoa màu trắng nào đây?
Cúc? Lily?”
“Điều đó tuỳ
cô. Dù vậy, đừng dùng loại có hương nồng nhé.”
“Tôi có
thêm một câu hỏi. Chị có biết mỗi phòng trong quán trọ này được trang trí để tỏ
lòng kính trọng một nghệ sĩ khác nhau không? Có hai phòng ở tầng hai nhìn ra hướng
tây. Một là phòng Roy Lichtenstein, và phòng kia là Gustav Klimt. Chị nghĩ Mr.
Black sẽ thích phòng nào hơn?”
Nhét lọn
tóc màu đồng đỏ ra sau tai, Priscilla cân nhắc câu hỏi. “Với tôi, chúng nghe có
vẻ giống như cô đang nói về mấy thứ thuốc kháng sinh ấy.” Cô ấy nói. “Cô có thể
nói rõ hơn về chúng không? Tôi biết về nghệ thuật cũng ngang bằng với nước sốt
táo.”
Justine
thích tính ngay thẳng của cô ấy. “Roy Lichtenstein là một nghệ sĩ theo trường
phái pop-art của Mỹ. Những bức hoạ nổi tiếng nhất của ông trông giống như tranh
biếm hoạ, với chữ viết và những quả bóng ý tưởng. Tác phẩm của ông thiên về
châm biếm nhiều hơn là cảm xúc. Klimt, đối nghịch lại, có thiên hướng về nhục dục.
Ông ấy là một hoạ sĩ người Áo từ những năm 1800s, và phong cách của ông được gọi
là Art Nouveau, với những nét vẽ ngẫu hứng về đường kẻ và đường cong theo như
những hoa văn gỗ lát sàn của người Nhật. Bức hoạ nổi tiếng nhất của ông là bức
Nụ Hôn – có một bản in được treo trong phòng. Vậy... phòng nào sẽ phù hợp ngài
Black đây? Lichtenstein hay Klimt?”
Priscilla
cau mày.
Justine
kiên nhẫn đợi.
“Klimt.” Cuối
cùng, người phụ nữ nói, mắt cô ấy nheo lại. “Nhưng không được nói bất cứ điều
gì về việc đó.”
“Tôi đã ký
bản hợp đồng không tiết lộ rồi.” Justine nhắc cô ta. “Nhưng cho dù không có bản
hợp đồng đó, chị cũng không cần thiết phải lo lắng. Tôi rất giỏi với việc giữ
bí mật.”
“Tôi cũng
hình dung như thế.” Sau khoảng dừng cân nhắc, Priscilla bắn thẳng vào cô cái
nhìn trực diện và hỏi. “Nhân tiện, Sylph là gì vậy?”
Vậy ra cô ấy
đã nghe thấy câu thần chú. Justine trả lời bất chợt. “Một tinh thần siêu nhiên
đại diện cho không khí. Có một vị khác đại diện cho đất, một vị khác nữa cho nước,
vân vân...”
“Cô là một
trong những loại ôm-gốc-cây đó sao?”
Justine cười.
“Tôi không bao giờ ôm một cái cây nào theo đúng ngữ nghĩa, nhưng tôi phát hiện
ra chúng là những thính giả tuyệt vời. Niềm tin của cô là gì?”
“Tôi được
nuôi dưỡng bởi những thiên thần của giáo đoàn lửa.”
“Tôi không
quen thuộc với kiểu đó.”
“Họ thuyết
giáo về việc kiêng khem tình dục và ngày tận thế. Và các mục sư của chúng tôi
tin rằng quỷ Satan đã đặt khủng long hoá thạch vào trong đất cho đám loài người
đáng thương.” Không chút kiêu hãnh, Priscilla nói thêm, “Tôi đã bị yểm trừ hai
lần trước khi tôi lên mười lăm.”
“Thật sao?
Vì cái gì?”
“Tôi bị bắt
quả tang đang nghe nhạc rock.”
“Cả hai lần
sao?”
“Lần đầu
tiên không tính.” Priscilla nhừng lại khi tiếng chuông điện thoại vang lên sâu bên
trong túi xách của cô ấy. “Thứ lỗi.” Cô kéo phone ra và nhìn xuống màn hình nhỏ
xíu. “Tôi có vài e-mail và tin nhắn cần phải quan tâm.”
“Cứ ở lại
văn phòng đi, nếu chị thích. Tôi sẽ chuẩn bị một phòng sẵn sàng cho chị.”
“Cám ơn. Nếu
cô không phiền, tôi muốn nhận chìa khoá của tất cả các phòng một lượt khi chúng
sẵn sàng.”
“Được.
Thông thường thì tôi sẽ hướng dẫn khách đến phòng của họ khi họ đến.”
“Jason muốn
tôi quan tâm đến điều đó. Anh ấy không thích chuyện trò nhiều.”
“Không sao.
Tôi sẽ tránh đường khi họ đến đây.”
“Cám ơn.” Đầu
của Priscilla cúi xuống trên chiếc điện thoại khi cô ấy bắt đầu nhắn tin. “Cô định
dành phòng nào cho tôi thế?” Cô ấy hỏi mà không nhìn lên.
“Phòng
Degas” Justine nói. “Một hoạ sĩ theo trường phái ấn tượng người Pháp đã vẽ bức Múa
ballet. Đó không phải là phòng lớn nhất, nhưng là phòng xinh xắn nhất. Rất nhiều
ren trắng và hoa hồng màu hồng nhạt, và một ngọn chúc đài pha lê.
Priscilla vẫn
không ngừng nhắn tin. “Điều gì khiến cô nghĩ tôi sẽ thích căn phòng nữ tính
đó?”
“Bởi vì tôi
đã nhìn thấy hình nền trên máy tính bảng của cô.” Justine nhướng chân mày thành
đôi vòng cung trêu chọc. “Một hàng mèo con kitty đang ngồi trên cây đàn piano?
Đúng không?”
Khi ánh mắt chưng hửng của người phụ nữ gặp ánh mắt cô, Justine bật cười lặng lẽ. “Đừng lo, tôi sẽ không nói ra đâu.”
Khi ánh mắt chưng hửng của người phụ nữ gặp ánh mắt cô, Justine bật cười lặng lẽ. “Đừng lo, tôi sẽ không nói ra đâu.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét