Thứ Tư, 8 tháng 10, 2014

Crystal Cove 20



CHƯƠNG 20.




“Một tin nhắn khác từ Justine.” Priscilla nói một cách dứt khoát, trượt chiếc điện thoại trở lại trong túi xách. “Cô ấy còn điên hơn gã thợ điện người Amish* nữa.”
(*Amish : một nhóm người Ki tô hữu duy truyền thống, sống giản dị, tự cung tự cấp không theo những tiến bộ của khoa học, có nguồn gốc từ Thuỵ Sĩ và di cư đến Mỹ vào 1693 vì ly khai giáo hội. Hiện dân số tổng cộng ở vài bang khoảng 280.000 , sau 3 thế kỷ vẫn không thay đổi nhiều và ngày càng sống cách biệt. Người Amish không xài điện lưới quốc gia nên làm gì có thợ điện.)
“Cô ấy sẽ vượt qua thôi.”
“Tôi thì không, nếu tôi là cô ấy.” Priscilla nhìn xuống Triodecad, vuốt bàn tay qua lớp vải lanh bao phủ nó. Quyển sách và lớp bọc thấm đẫm hương thơm khô, ngọt, dễ chịu của lá xô thơm trắng. Mặc dù Jason gợi ý chị nên đặt quyển sách nặng nề vào trong băng ghế sau, chị khăng khăng giữ nó trong lòng.
“Trông chị có vẻ lo lắng,” Jason nói, lái chiếc Nissant thuê rời khỏi sân bay quốc gia Little Rock*. Ánh nắng chiều mạnh mẽ và có màu lòng đỏ trứng, khiến anh nheo mắt qua đôi tròng của chiếc kính mát phân cực.
(*Little Rock là tên của thủ đô và cũng là thành phố đông dân nhất của bang Arkansas,USA)
“Đó là vì chị không muốn tôi gặp gia đình chị, hay vì chị không chắc việc hô thần chú có hiệu quả?”
“Cả hai, tôi đoán thế. Họ hàng của tôi có vài thói quen. Phần lớn trong số họ luôn sống trong vòng mười dặm từ công viên Toad Suck.”
“Tôi không có bất kỳ vấn đề gì trong việc hoà thuận với họ, và… Chị vừa nói ‘Toad Suck’ à?”
“Đó là nơi chúng ta đến. Toad Suck, Arkansas. Người ta gọi đó là một thị trấn nhưng thật ra đó là một cộng đồng không có tính pháp nhân.”
“Cái tên đó do đâu mà có?”
“Chuyện kể rằng trong những ngày xa xưa, các thuỷ thủ của tàu hơi nước bị mắc kẹt lại tại một quán rượu và chờ đợi sông Arkansas dâng nước lên. Cư sân địa phương đã nói rằng những người sống trên sông nước đó sẽ hút (Suck) một chai nước cho đến khi họ phồng lên giống như những con cóc (Toad)
Jason cười toe toét, quẹo vào đường I-40 để hướng về phía Bắc.
“Có một câu chuyện khác,” Priscilla tiếp tục, “Những cư dân người Pháp đầu tiên đã đặt tên là vùng Tout Sucré, có nghĩa là ‘ngọt như đường’. Qua năm tháng người ta phát âm nó theo những cách khác cho đến khi nó trở thành Toad Suck.”
Thật dễ hiểu tại sao những cư dân đầu tiên đã đặt tên Tout Sucré – vùng đất trù phú và màu mỡ, những ngọn đồi được bao phủ bởi những cây thân gỗ cứng, thung lũng phì nhiêu với đất phù sa. Những rừng cây thích lấy mật đường đang bắt đầu chuyển màu, cành nhánh của chúng được bao phủ bởi những chiếc lá màu lửa. Những nhánh sông cắt từ cao nguyên Ozark xuyên qua thung lũng sông và chảy xuống những rặng núi Ouachita.
“Dòng họ Fiveash đã sống ở Toad Suck từ rất lâu rồi,” Priscilla nói. “Họ làm việc chăm chỉ, đi lễ nhà thờ, và gởi những đứa trẻ đến trường. Họ mua sắm tại Dollar Tree bởi vì họ không muốn trưng diện bằng những lễ phục từ Walmart. Họ nghĩ rằng ăn tại chỗ có nghĩa là bắn những con sóc của chính anh. Và khi những người bà con của tôi bắt đầu nói chuyện, anh sẽ ước chúng đi kèm với phụ đề.”
“Sẽ không có bất kỳ vấn đề nào đâu,” Jason nói, hơi ngạc nhiên với dấu hiệu phòng thủ trong giọng của cô. “Chị biết tôi không phải là một kẻ hợm hĩnh mà.”
“Vâng, thưa ngài. Tất cả những gì tôi đang nói là, anh nghĩ tôi có những khía cạnh kém văn minh khi tôi bắt đầu làm việc tại Inary. Chà, so sánh với phần còn lại của gia đình tôi, tôi đã trang nhã như công nương Di.” (Chắc là công nương Diana danh tiếng của Anh chăng?)
“Hiểu.” Jason nói, thầm thích thú. “Sẽ không có vấn đề gì hết đâu, Priscilla.”
Cô gật đầu, trông vẫn có vẻ bối rối. “Nhân tiện, anh sẽ không gặp mama của tôi đâu. Kể từ khi Daddy chết, bà ấy không muốn dính líu gì với pháp thuật nữa. Chúng ta sẽ đến căn double-wide* của Granny Fiveash. Anh sẽ gặp bà ấy và bà cô Bean của tôi, ông chú Cletus. Dĩ nhiên, Cletus sẽ không giúp đỡ trong việc hô thần chú, vì ông ấy là một người bình thường.”
(*Double-wide : một loại nhà lưu động liên kết đôi)
“Có phù thuỷ nam nào không? Một pháp sư?”
“Không, đó chỉ là một chuyện hoang đường. Điều đó được nói trong Malleus Maleficarum…”
“Đó là cái gì?”
“Một quyển sách về săn phù thuỷ được viết bởi một tu sĩ Công Giáo vào những năm 1400s. Nói rằng ác quỷ cám dỗ phụ nữ bằng cách gởi các thiên thân sa ngã đẹp trai để quyến rũ họ… và phụ nữ trở thành những kẻ trợ giúp của hắn. Đó là cách những phù thuỷ khởi đầu. Theo giả thuyết. Nhưng hiện nay chẳng có điều gì của quỷ dữ liên quan đến người có quyền năng pháp thuật.”
“Chị có phiền lòng khi nghĩ đến tai ương của phù thuỷ không?” Jason thấy mình đang hỏi. “Hẳn là phải có. Chị hẳn phải thấy lo lắng về việc sẽ vương vấn tình yêu với người nào đó.”
Priscilla lắc đầu chưng hửng, màu sắc ửng lên trên má chị. Thật hiếm khi họ có một cuộc trò chuyện cá nhân đến thế. “Thật ra, tôi không có. Toàn bộ cuộc đời tôi, tôi chỉ có một suy nghĩ làm sao để thoát khỏi Toad Suck. Có được học vấn, làm việc cong đuôi… không có thời gian dành cho chuyện yêu đương lãng mạn.” Chị có vẻ trầm tư khi nói thêm, “Mặc dù tôi không còn sống ở đây nữa, vẫn có cảm giác giống như tôi đang cố trốn thoát. Tôi luôn muốn thứ gì đó khác. Không chắc là cái gì. Tiền, tôi đoán vậy. Mama nói tôi sẽ không bao giờ hạnh phúc cho tới khi tôi có đủ tiền để đốt cháy một con la cứng đầu cứng cổ ướt sũng.”
“Không.” Jason nói lặng lẽ. “Khi người ta lao đầu vào việc kiếm tiền, vấn đề không bao giờ là về tiền bạc.”
Priscilla rơi vào yên lặng khi cô suy nghĩ về điều đó.
Đôi phút sau đó Jason nói. “Đừng trở nên căng thẳng với việc thả lời nguyền này. Chỉ cần làm việc tốt nhất của chị thôi.”
“Với anh thì thật dễ để nói. Tôi mới là người phải làm nó cho đúng. Pháp thuật không phải là toán học để có câu trả lời chính xác. Đôi khi đó là một lựa chọn giữa nhiều câu trả lời xấu. Hay tệ hơn, nhiều câu trả lời nghe có vẻ đúng.”
Jason cố nghĩ thứ gì đó có thể làm giảm đi áp lực cho chị. “Priscilla, chị có biết cú đánh khó nhất trong golf là gì không?”
“Cối xay gió.” Chị nói dứt khoát.
“Gì cơ?... Không, tôi không nói về Putt-Putt*. Ý tôi là môn chơi golf thật sự. Cú đánh khó nhất là một cú bunker dài.” Liếc nhìn gương mặt trống rỗng của chị, Jason nói, “Khi trái banh bị mắc kẹt trong một hố cát. Chỉ có hai cách để đối phó. Chị hoặc là Pitch nó hoặc Blast nó. Pitching là một cú đánh ngắn, rủi ro thấp, chỉ mang được banh ra khỏi hố. Blast nó bằng một cú bạt mạnh mẽ, dài sẽ kết thúc trong vinh quang hoặc hoàn toàn thất bại.”
(*Putt-putt : một kiểu sân golf thu nhỏ với các chướng ngại vật nhân tạo, trong đó mô hình cối xay gió được dùng như một chướng ngại vật di chuyển được.)
“Vậy ra anh đang nói rằng khi chúng ta thử lời nguyền pháp thuật tối nay, anh muốn chơi theo kiểu rủi ro lớn.”
“Không. Chơi an toàn. Chúng quá quan trọng để đánh liều mọi thứ. Chỉ tiến hành với cú pitch ngắn, đẩy tôi ra khỏi cái hố chết tiệt ấy. Nếu chị có thể mang lại cho tôi thêm vài năm với Justine, tôi sẽ làm cho chúng đáng với toàn bộ một cuộc đời.
Priscilla nhìn anh băn khoăn. “Anh đã yêu cô ấy rồi.”
“Dĩ nhiên tôi yêu. Chị nghĩ gì thế?”
“Tôi đã nghĩ anh chỉ làm thân với cô ấy vì quyển sách ước.”
Anh bắn cho cô một ánh mắt bị xúc phạm. “Tại sao việc tôi có thể yêu ai đó lại khó tin đến thế?”
“Bởi vì mỗi khi anh chia tay với một người phụ nữ, anh bảo tôi mua cho cô ta món nữ trang đắt giá nào đó và quấn nó vào cô ta. Những hoá đơn Tiffany của anh đã tạo bong bóng kinh tế cho thị trường kim loại quý đấy.”
Jason cau có, giữ ánh mắt anh vào con đường. “Justine khác với những người khác.”
“Tại sao? Bởi vì cô ấy là một phù thuỷ ư?”
“Bởi vì cô ấy là Justine.”
Priscilla nhìn chằm chằm xuống Triodecad, xoa những vòng tròn trên đó. “Cô ấy có yêu anh không?” Cô thận trọng hỏi.
“Tôi nghĩ thế.” Jason chuyển hướng để tránh một con kền kền đang ăn thú vật chết trên đường. “Và tôi muốn sống đủ lâu để cố xứng đáng với điều đó.”
“Vậy thì tôi tốt hơn nên tìm một lời nguyền có sức mạnh vượt trội.” Lời đáp chua chát của cô vang lên.
Sau chuyến lái xe mười lăm phút, họ rẽ vào Toad Suck Park. Priscilla hướng dẫn anh đi theo một loạt các ngã rẽ, những con đường hẹp dần và gồ ghề hơn, cho đến khi họ vươn đến một lối vào riêng trải sỏi đã bị xói mòn, những chiếc bánh xe lún vào trong những ổ gà sâu. Họ cố vượt lên tiến đến căn double-wide mắc kẹt trong một khu rừng nhỏ những cây sơn thù du. Một nhà xe lưu động có hiên trước được ứng biến từ một tấm ván ép đã bị oằn và một bộ ghế nhựa. Một con chó chẳng biết thuộc giống gì nằm lười nhác tại một góc của tấm ván ép, chiếc đuôi nham nhở của nó quẫy mạnh khi nhìn thấy chiếc xe hơi tiến đến.
“Thoạt đầu chắc họ sẽ có vẻ hơi điên khùng một chút,” Priscilla nói khi Jason dừng xe. “Nhưng sau khi anh biết họ … thậm chí trông họ còn có vẻ điên khùng nhiều hơn.”
“Không đánh giá gì hết.” Jason cam đoan với chị. Đó là một trong những thứ anh đã học được từ San Francisco trong mười năm gần đây. Một người với mái tóc bảy màu cầu vồng và đeo nhiều khuyên có thể là một tay triệu phú, hoặc ai đó ăn mặc như thể anh ta lượm mớ quần áo của anh ta từ một thùng rác, là một người dẫn đầu cộng đồng được tôn trọng. Những thành kiến chẳng giúp ích được gì, chưa kể đến ngu ngốc nữa.
Ra khỏi xe, Jason bị ấn tượng trước cảnh thanh bình của khu vực. Tất cả những gì anh có thể nghe là tiếng mổ lách tách của chim gõ kiến trên bụi cây thông hoặc tuyết tùng gần đó, và tiếng rì rào của một nhánh sông. Không khí đặc quánh hơi nước như thể được toả từ chiếc bàn ủi hơi. Một luồng gió của miền đất trũng uể oải mang theo mùi của cỏ chín và nhựa thông.
Sự yên lặng bị phá vỡ bởi tiếng lao xao của một cặp phụ nữ luống tuổi xuất hiện từ nhà xe, cả hai đều khua xủng xoảng các món nữ trang. Cả hai đều phải tám mươi tuổi. Họ ăn mặc tượng tự nhau trong dép xỏ ngón, áo ngắn màu sắc sặc sỡ và quần lửng. Một trong họ có mái tóc cuộn lên giống như cây kem ốc quế vanilla từ Dairy Queen*, và người kia, gây shock với mái tóc màu đỏ lửa. Hò reo và huyên thuyên không ngừng, cả hai đổ xô đến Priscilla và ôm chị vào giữa họ.
(*Dairy Queen : Một hệ thống chuỗi cửa hàng kem và bánh ngọt lạnh nổi tiếng của Mỹ thuộc tập đoàn Bershire Hathaway của tỷ phú Warren Buffet thành lập từ năm 1940)
“Prissy, cháu yêu, cháu chỉ toàn da với xương,” Người tóc đỏ la lên. “Ở California người ta không có cháu ăn sao?”
“Dĩ nhiên là họ không rồi,” Người kia nói trước khi Priscilla có thể đáp. “Tất cả những gì người hippy vùng West Coast bọn họ ăn là những lát cải xoăn.” Bà tươi cười với Priscilla. “Chúng ta đã nấu cho cháu một vài thức ăn thực sự, cháu gái à. Thịt hầm xúc xích và bánh biscuit táo.”
Priscilla bật cười và hôn lên gò má như da thuộc của bà. “Granny, bà cô Bean… Cháu muốn các bà gặp gỡ ông chủ của cháu, Mr.Black.”
“Cậu ta làm chủ công ty máy tính mà cháu làm việc à?”
“Trò chơi Video,” Jason nói, đi vòng qua chiếc xe để tiến lại gần họ. Anh giơ một tay với người tóc đỏ. “Làm ơn gọi tôi là Jason.”
“Công nghệ máy tính sẽ phá huỷ thế giới này,” Bà nói, lờ đi bàn tay đang giơ ra của anh. “Chúng tôi không quan tâm chuyện bắt tay, cưng à, chúng tôi chỉ ôm thôi.” Bà quàng một cánh tay quanh anh, bao bọc anh trong một hỗn hợp các mùi hương gây bối rối : sản phẩm chăm sóc tóc, nước hoa, chất khử mùi, kem dưỡng thể và một mùi rõ rệt của thuốc xịt côn trùng. “Tôi là bà ngoại của Priscilla,” Bà bảo Jason. “Cậu cũng có thể gọi tôi như thế.”
Người phụ nữ tóc kiểu vanilla cũng đến để ôm Jason, thân trên của bà mạnh mẽ, ngắn và tròn trĩnh như chiếc thùng tô-nô. “Tôi thường là Wilhelmina, nhưng dân làng cứ thích gọi tôi là Bean khi tôi là một đứa trẻ và mắc kẹt luôn với nó.”
Vì có vẻ như cả hai người phụ nữ đều không có khuynh hướng thả tay anh ra, Jason đi đến nhà xe với Granny và Bean mỗi người ở một bên người. Priscilla đi theo sau cùng với quyển sách ước. Một luồng hơi lạnh phả vào họ ngay khi cửa trước mở ra. Một chiếc máy điều hoà không khí kêu ù ù chỗ cửa sổ, làm mát lạnh khu vực bên trong nhà xe ở nhiệt độ bắc cực. Họ đi vào phòng sinh hoạt chung, bức tường chính được che phủ bằng những chiếc dĩa thiếc không trật tự.
Ngôi nhà sạch sẽ, nhưng lèn chặt những chiếc bàn và các kệ đồ sưu tập : những bức tượng nhỏ, liềm hái nho và những vại ruồi, nút chai, bánh cookie. Điều đó khiến cho Jason, luôn ưa thích sự thanh đạm và không gian gọn gàng, cảm thấy nỗi sợ bị giam giữ mờ nhạt. Khi anh nhìn thấy cả hai cửa sổ bếp bị lấp kín bằng các chai bia và bình giữ nhiệt kim loại, anh buộc phải lấy một hơi thở bình tĩnh.
“Bây giờ,” Granny nói với Priscilla, “chúng ta hãy nhìn một cái vào quyển sách ước xem nào.”
“Nó rất cũ,” Jason nói, bứt rứt trước viễn cảnh quyển sách phép quý báu của Justine nằm trên cùng một bàn với những thứ như xoong thịt hầm trắng kẽm bốc mùi xúc xích và tương cà. “Tôi không thể để bất kỳ điều gì xảy ra với nó.”
“Chúng tôi sẽ cẩn thận.” Granny trao cho Jason mốt ánh mắt tinh ranh. “Không bao giờ nghĩ tôi sẽ nhìn thấy một trong những thứ này, đặc biệt không phải thứ có một cái tên.”
“Chúng tôi chưa bao giờ nghiên cứu pháp thuật từ một quyển sách phép,” Bean nói, nhìn theo ánh mắt của Jason đến nồi thịt hầm. Bà mang món ăn ra khỏi bàn, đặt nó trên mặt quầy bếp và lau tay vào chiếc áo ngắn của bà. “Chỉ những người có siêu năng loại tinh hoa mới có thứ đó. Chúng tôi luôn giữ những lời nguyền và cách thức của chúng tôi trên những tấm thẻ công thức.”
“Một quyển sách giống như thế này,” Granny nói, “có nhiều quyền năng hơn những thứ được viết trên những tờ giấy.”
Bà lão buột ra một hơi thở nhỏ tán thưởng khi Priscilla mở khăn gói Triodecad. Lớp bìa da lập loè giống như sự hoàn thiện của quả mận đen. Một ổ khoá bằng đồng nằm ở trung tâm trong một thiết kể mặt đồng hồ lạ thường. Cho dù Jason không biết giá trị siêu nhiên của quyển sách, anh cũng sẽ nhận ra ngay lập tức đó là một cổ vật vô giá.
“Sao lại là một mặt đồng hồ ?”
“Đó không phải đồng hồ chỉ thời gian đâu,” Granny đáp. “Đó là những tuần trăng. Trái đất ở đây, tại trung tâm.” Bà lần theo ranh giới vô hình từ ổ khoá đến mỗi điểm ở vòng tròn bên ngoài. Một phần tư tuần trăng đầu tiên nằm trên đỉnh… trăng khuyết bên cạnh… trăng tròn ở ngay đó…” Ngón tay bà di chuyển đến rìa của bìa sách. “Mặt trời sẽ chiếu sáng từ hướng này.”
Một cái cau mày xáo trộn kéo nhăn vầng trán của Priscilla. “Tối nay là đêm trăng tròn, Granny. Đó có phải thời gian thích hợp để thả lời nguyền không?”
“Tuỳ thuộc vào lời nguyền. Chúng ta cần phải đọc một số, cháu và ta và Bean, để tìm ra điều gì tốt nhất. Granny quay nhìn Jason và nói với vẻ thương cảm. “Prissy đã nói với tôi những gì chúng ta đã thoả thuận. Giữa việc thiếu linh hồn và tai ương phù thuỷ, cậu có nhiều vấn đề hơn một quyển sách toán. Và chúng tôi chỉ có thể thả một lời nguyền mỗi lần, hoặc là chúng bắt đầu huỷ bỏ lẫn nhau.” Bà ngừng lại. “Ai giữ chìa khoá?”
“Tôi.” Jason nói, kéo ra sợi chuỗi từ bên dưới áo polo của anh.
Granny nhận nó từ anh với một cái gật đầu thiết thực. “Bean à, trước khi chúng ta mở quyển sách, tôi nghĩ chúng ta tốt nhất nên quét bếp bằng một cái chổi xể.”
“Tôi sẽ tìm nó.” Bean nói, lao xuống hành lang hẹp.
“Jason,” Granny tiếp tục, “Chúng tôi sẽ đọc một lúc. Nhấc chân cậu lên nếu cậu thích. Cậu có thể xem TV. Razorbacks* đang chơi cùng Aggies* đấy.”
(*Razorbacks và Aggies là hai đội bóng bầu dục của trường đại học, Razorbacks của trường đại học Arkansas và Aggies của trường đại học Texas A&M )
“Bà có phiền nếu tôi đi dạo một chút không?”
“Cứ đi đi.”
Khi Jason nhặt mắt kính mát của anh lên khỏi bàn và xoay người ra cửa, Bean lao đến anh với một bình phun và bắt đầu xịt. Anh lùi tránh theo phản xạ trong lúc Bean hướng vòi phun trên ống quần anh và thậm chí với đến gấu quần để phun lên mắt cá chân của anh. Mùi thuốc diệt con trùng điền đầy không khí trong một đám mây độc hại. “Không. Thật đấy. Tôi không…”
“Cầu cần nó,” Bean nói với vẻ uy quyền, đi ra đàng sau anh, không ngừng xịt.
“Cậu không biết về giống muỗi Arkansas.” Granny bảo anh. “Trong mười phút chúng sẽ hút khô máu cậu y như con heo trong ngày giết mổ.”
“Ái chà chà,” Giọng Bean vang lên phía sau anh. “Đây là thứ mà tôi gọi là cặp mông siêu đẳng.”
Jason trượt một ánh mắt hẹp vào Priscilla, có vẻ như cô đang cố kềm một nụ cười toe toét. “Cám ơn.” Anh lầm bầm, và chuồn êm ngay khi Bean làm xong.
“Thêm một điều nữa,” Granny gọi với theo sau anh. “Nếu cậu trông thấy Cletus trên tầng trên, đừng quan tâm gì đến ông ấy.” Cánh cửa đóng lại.
Jason ngừng bước giữa chừng. “Làm quái gì có tầng trên trong một căn nhà xe lưu động chứ.” Anh nói thành tiếng.
Chậm rãi anh đi vơ vẩn quanh cấu trúc ọp ẹp. Anh khám phá ra rằng những cây sơn thù du ở phía trước căn nhà xe đã che khuất một chiếc ghế cắm trại, một thùng giữ lạnh bằng nhựa, và một chiếc dù gỗ, tất cả được sắp xếp trên một góc mái bằng. Chiếc ghế đã bị chiếm cứ bởi một ông già đội nón câu cá, quần short, và một chiếc áo thun với tuyên ngôn KHÔNG CHỈ LÀ MỘT NGƯỜI HOÀN HẢO, TÔI CÒN LÀ MỘT NGƯỜI MIỀN NAM NỮA. Ông già nhìn chăm chú vào chiếc điện thoại di động trong một tay và tay kia giữ một chai beer.
“Cletus?” Jason thận trọng hỏi.
Người đàn ông đáp mà không dời mắt khỏi chiếc điện thoại. “Đúng là tôi. Cậu là người mà con bé Priscilla đưa về thăm đấy ư?”
“Vâng. Jason.”
“Lên đây đi và lấy một chai ướp lạnh.” Ông chỉ vào một chiếc thang chống vào bên nhà xe.
Jason trèo lên mái, thứ được che phủ bằng một lớp cao su dày đến mức bốc mùi vỏ xe mới nồng nặc.
Anh tiến gần ông già, và họ bắt tay nhanh. Đôi mắt của Cletus là hai đồng xu xanh ngắt bên dưới đôi chân mày sâu róm màu bạc. Làn da ông gần như nâu và có kết cấu như những chiếc lá thuốc khô. Phần lớn những người cao tuổi như Cletus sẽ không thể trèo được nữa. Nhưng ông rắn rỏi, phong sương với đôi cánh tay như sợi thừng và thân thể dẻo dai.
Với tay vào bên trong thùng giữ lạnh, Cletus kéo ra một lon bia ướt sũng và trao nó cho anh.
“Cám ơn.” Jason ngồi trên rìa mái bên dưới chiếc dù.
“Đoán là cậu đến đây để nhờ Bean và Granny áp dụng một thần chú cho cậu.” Cletus nói.
“Kế hoạch là như thế.” Jason mở lon bia và uống một hơi dài. “Ông là ông chú của Priscilla sao?”
“Thông gia thôi. Anh sinh đôi của tôi, Clive, đã kết hôn với Bean, từ rất lâu rồi. Ông ấy chết khi bị một con ong tấn công sáu tuần sau đám cưới của họ.”
“Ông ấy bị dị ứng với nọc ong ư?”
“Dị ứng với những lời nguyền thì đúng hơn. Clive biết rủi ro khi cưới Bean. Mọi người đều biết về những phụ nữ Fiveash. Những goá phụ đen, tất cả bọn họ. Họ không thể ngăn được điều đó. Cậu kết đôi với một người trong số họ và rồi cậu sẽ chết.”
“Tại sao Clive cưới Bean nếu như ông ấy đã biết về điều đó?”
“Bean là một người xinh đẹp trong những ngày đó, và Clive điên cuồng vì bà ấy. Nói rằng anh ấy phải có được bà, bất kể có bị nguyền rủa hay là không. Không ai có thể biết được cảm xúc bên trong anh ấy, ngay cả Bean cũng không. Anh ấy đã là người chết ngay lần đầu tiên anh ấy để mắt đến bà.”
“Tôi biết cảm xúc ấy,” Jason nói không chút hài hước.
Uống xong beer, Cletus đập bẹp lon bia và ném ra khỏi mái nhà. “Lời nguyền theo đuổi tất cả những phụ nữ nhà Fiveash. Tôi hy vọng là cậu không để ý Priscilla.”
“Không, thưa ông.”
“Vậy thì tốt. Hãy giữ nguyên như thế. Cậu không muốn kết thúc giống như Clive đâu. Hoặc chồng của Granny, Bo.”
“Ông ấy chết thế nào?”
“Bị sét đánh trên bến phà Toad Suck, ngã ra sau khi vẫn còn những chuyến phà.” Cletus ngừng lại ngẫm nghĩ. “Một tuần trước khi việc đó xảy ra, Bo nói với tôi rằng bất cứ nơi nào ông ấy tới, những chiếc đồng hồ ngừng đếm nhịp. Đồng hồ đeo tay của ông ấy chết ngắc. Quỷ thật, ngay cả chiếc đồng hồ cát để đếm thời gian luộc trứng trong bếp cũng lộn xộn khi Bo lại gần nó.” Ông kéo tay nẳm để mở một lon bia mới. “Điều kỳ lạ là, Clive đã kể với tôi anh ấy cũng gặp vấn đề tương tự ngay trước khi tai nạn xảy ra. Anh ấy luôn xuất hiện đúng giờ làm việc mỗi ngày trong cuộc đời anh ấy, nhưng bắt đầu đi trễ do mọi chiếc đồng hồ trong nhà đã ngừng hoạt động. Một tuần sau đó, Clive mất.”
Jason nhìn chằm chằm vào ông một cách cảnh giác. “Mỗi người họ đều chết một tuần sau khi những chiếc đồng hồ ngừng hoạt động sao?” Ánh mắt anh hạ thấp xuống chiếc đồng hồ bằng thép không rỉ của anh. Nhẹ nhõm khi thấy nó vẫn đang hoạt động, anh buột ra một tiếng thở dài đã bị kềm nén lại.
Trước khi anh nhìn lên, anh nghe Cletus nói nhẹ nhàng. “Chàng trai, cậu đang gặp rắc rối, đúng không?”

***

Sau khi bầu bạn với Cletus trong khoảng một giờ, Jason trèo xuống và đi vào nhà xe. Ba người phụ nữ tập trung dữ dội vào Triodecad.
“Thế nào rồi?” Jason hỏi.
“Quyển sách này thật không thể tin nổi,” Priscilla nói. “Có những câu thần chú gần như cho mọi thứ mà anh có thể hình dung.”
“Chị có tìm ra được điều gì chống lại tai ương phù thuỷ không?”
Pricilla lắc đầu. “Không có gì đặc biệt. Thật phi lý, bởi vì trải qua tất cả các thế hệ phù thuỷ bẩm sinh, ai đó hẳn đã cố sửa chữa vấn đề này rồi. Tại sao không ai viết thứ gì đó xuống?”
“Bean và tôi đã cố cứu chồng của chúng tôi,” Granny nói “Khi điều đó không hiệu quả, chúng tôi cho rằng pháp thuật của chúng tôi quá yếu, vì chúng tôi chưa bao giờ được giáo dục trong việc hô thần chú. Nhưng tôi nghĩ một quyển sách như thế này sẽ có câu trả lời.”
Jason tập trung vào Priscilla. “Cú pitching khỏi hố cát ra sao rồi?”
“Chúng tôi tìm thấy một lời nguyền trường thọ,” Cô nói. “Một thần chú quyền năng, xét theo vẻ ngoài của nó.”
Anh giữ một vẻ mặt trung lập. “Có bất kỳ trở ngại nào đối với thần chú trường thọ không?”
“Không phải những gì chúng tôi nghĩ đến. Mọi người đều muốn sống lâu, đúng không?” Cô cau mày. “Nhưng anh đã hỏi không đúng người rồi. Không ai trong chúng tôi được huấn luyện ở mức độ này của pháp thuật. Về cơ bản anh đang hỏi người chỉ biến được Hamburger Helper* để triệu tập một món khai vị từ Mastering the Art of France Cooking*.
(*Hamburger Helper : Một thương hiệu mỳ ống đóng hộp sẵn với nhiều loại hương vị để chọn lựa.
*Mastering the Art of French Cooking : sách dạy nấu ăn gổm 2 tập do đầu bếp Pháp Simone Beck và Louisette Bertholle hợp tác với Julia Child của Mỹ phát hành tại Mỹ.)
Jason không quên lời cảnh báo của Justine về lời nguyền trường thọ… rồi ngày nào đó anh có thể sẽ kết thúc với việc nài nỉ được chết. Tuy nhiên vào khoảnh khắc này, trường thọ là câu trả lời cho mọi thứ. Nó sẽ cho phép anh được ở cùng Justine, và đó cũng là cơ hội tốt nhất để tránh được tai ương phù thuỷ.
“Có một lời nguyền khác mà tôi muốn thêm vào.” Priscilla nói.
Chân mày của anh nhướng lên.”Tôi nghĩ luật quy định chỉ một lời nguyền cho một người thôi mà.”
“Lời nguyền thứ hai không phải dành cho anh. Nó được dành cho Justine.”
Jason im lặng, lắng nghe chăm chú.
“Chúng tôi mốn trói buộc một geas trên cô ấy,” Priscilla nói lặng lẽ. “Gần với nguyên bản nhất có thể. Nó có thể không hoàn toàn tốt, nhưng chúng tôi nghĩ với ba người chúng tôi…”
“Không.”
“Cô ấy sẽ tốt hơn và anh cũng thế.”
“Không thảo luận thêm nữa.”
“Anh sẽ có những gì anh muốn ngay từ khởi đầu,” Priscilla khăng khăng, trở nên đỏ bừng. “Anh sẽ có thêm nhiều thời gian được sống và anh sẽ được an toàn với Justine.”
“Nếu số phận của toàn thế giới được thăng bằng, tôi sẽ không để một geas trói buộc trên Justine một lần nữa.”
“Cậu sẽ vẫn còn trẻ,” Bean nói. “Cậu có thể tìm được ai đó khác.”
Anh lắc đầu. “Chỉ Justine hoặc không ai hết.”
Priscilla trừng mắt nhìn anh. “Anh hành động điên khùng y như con cá viền đỏ bị bơm thuốc ấy. Anh đâu đã biết cô ấy đủ lâu để kết luận lựa chọn đó.”
Jason đón lấy ánh mắt cô mà không chớp. “Dĩ nhiên là tôi có. Ngày nào đó cuộc đời chị sẽ thay đổi chỉ trong một giây ngắn ngủi. Thứ gì đó mà chị không bao giờ mong đợi sẽ đánh vào chị giống như một khúc gỗ hai nhân bốn (~5x10cm) Và chẳng có đủ thời gian để suy đoán tại sao hay điều gì vừa xảy ra. Chị chỉ có thể chấp nhận điều đó.”
“Không, Tôi sẽ tự nhắc nhở bản thân rằng vài thứ phải bị bỏ qua từ trước khi bắt đầu,” Priscilla nói.
Jason liếc nhìn gương mặt điềm tĩnh của Granny và Bean. “Cho tôi phát bắn tốt nhất của các vị với lời nguyền trường thọ, và tôi sẽ trả gấp đôi những gì chúng ta đã thoả thuận. Nhưng hãy để Justine bên ngoài chuyện này.”
“Tôi không nghĩ…” Granny nói.
“Gấp ba” Jason bảo bà.
Granny và Bean nhìn nhau.
“Chúng ta hãy tiến hành thôi,” Granny nói một cách lanh lợi. “Priscilla, Cháu lo việc tạo hình vòng tròn. Bean, chúng ta cần chén lễ và khăn phủ bàn thờ.”
Bean đến bên bậu cửa sổ kiếm một chiếc vại có thành dày được in logo của hãng bia Budweiser.
“Đó là chén lễ ư?” Jason hỏi thẳng thừng.
“Chắc chắn là thế. Chúng tôi đã thực hiện phép thuật tốt nhất của chúng tôi với nó.” Với tay vào trong ngăn kéo, Bean kéo ra một chiếc khăn lau dĩa và trải nó trên mặt quầy bếp.
Sau khi liếc nhìn chiếc khăn phủ được in hình âm bản của Elvis* đang chơi guitar, Jason trao cho Priscilla một ánh mắt ngờ vực.
“Không quan trọng khăn phủ bàn thời trông như thế nào,” Chị bảo anh với giọng khe khẽ, trong lúc hai người phụ nữ già bận rộn với việc chuẩn bị. “Hãy để họ tiến hành theo cách của họ. Họ biết việc gì là tốt nhất với họ.” Sau một khoảng ngừng ngắn, chị nói thêm, “Và đừng lên cơn choáng nếu họ đề cập đến Dionne Warwick* một đôi lần trong suốt cuộc hô thần chú. Điều đó làm Bean vui vẻ, và các thần linh cũng chẳng phiền chút nào đâu.”
(*Elvis Presley : Vua nhạc rock and roll, ca sĩ và diễn viên huyền thoại của Mỹ thời 60s, 70s. Sự nghiệp đỉnh cao kéo dài trên 2 thập kỷ, từ năm 20 cho đến khi mất vào tuổi 42. Chuyện ít người biết, ông còn là một môn đồ Karatedo với đai đen)
(*Dionne Warwich : nữ ca sĩ, diễn viên, MC người Mỹ gốc phi, cũng là đại sứ toàn cầu của Liên hiệp quốc về lương nông (FAO) và đại sứ Mỹ về sức khoẻ. Warwick được xếp hạng trong 40 nhà sản xuất tác động lớn nhất của toàn bộ thời kỳ rock, dựa trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Singles Charts Pop. Dionne Warwick cũng được xếp thứ hai chỉ sau Aretha Franklin trong danh hiệu Nữ ca sĩ của mọi thời đại với 69 đĩa đơn của Dionne làm cho bảng xếp hạng Billboard Hot 100 từ năm 1962 đến năm 1998.)


Không có nhận xét nào: