CHƯƠNG 20.
“Một tin nhắn khác từ
Justine.” Priscilla nói một cách dứt khoát, trượt chiếc điện thoại trở lại
trong túi xách. “Cô ấy còn điên hơn gã thợ điện người Amish* nữa.”
(*Amish : một nhóm người Ki tô hữu duy
truyền thống, sống giản dị, tự cung tự cấp không theo những tiến bộ của khoa học,
có nguồn gốc từ Thuỵ Sĩ và di cư đến Mỹ vào 1693 vì ly khai giáo hội. Hiện dân
số tổng cộng ở vài bang khoảng 280.000 , sau 3 thế kỷ vẫn không thay đổi nhiều
và ngày càng sống cách biệt. Người Amish không xài điện lưới quốc gia nên làm
gì có thợ điện.)
“Cô ấy sẽ vượt qua thôi.”
“Tôi thì không, nếu tôi là
cô ấy.” Priscilla nhìn xuống Triodecad, vuốt bàn tay qua lớp vải lanh bao phủ
nó. Quyển sách và lớp bọc thấm đẫm hương thơm khô, ngọt, dễ chịu của lá xô thơm
trắng. Mặc dù Jason gợi ý chị nên đặt quyển sách nặng nề vào trong băng ghế
sau, chị khăng khăng giữ nó trong lòng.
“Trông chị có vẻ lo lắng,”
Jason nói, lái chiếc Nissant thuê rời khỏi sân bay quốc gia Little Rock*. Ánh nắng
chiều mạnh mẽ và có màu lòng đỏ trứng, khiến anh nheo mắt qua đôi tròng của chiếc
kính mát phân cực.
(*Little Rock là tên của thủ đô và cũng
là thành phố đông dân nhất của bang Arkansas,USA)
“Đó là vì chị không muốn tôi
gặp gia đình chị, hay vì chị không chắc việc hô thần chú có hiệu quả?”
“Cả hai, tôi đoán thế. Họ
hàng của tôi có vài thói quen. Phần lớn trong số họ luôn sống trong vòng mười dặm
từ công viên Toad Suck.”
“Tôi không có bất kỳ vấn đề
gì trong việc hoà thuận với họ, và… Chị vừa nói ‘Toad Suck’ à?”
“Đó là nơi chúng ta đến.
Toad Suck, Arkansas. Người ta gọi đó là một thị trấn nhưng thật ra đó là một cộng
đồng không có tính pháp nhân.”
“Cái tên đó do đâu mà có?”
“Chuyện kể rằng trong những
ngày xa xưa, các thuỷ thủ của tàu hơi nước bị mắc kẹt lại tại một quán rượu và
chờ đợi sông Arkansas dâng nước lên. Cư sân địa phương đã nói rằng những người
sống trên sông nước đó sẽ hút (Suck) một chai nước cho đến khi họ phồng lên giống
như những con cóc (Toad)
Jason cười toe toét, quẹo
vào đường I-40 để hướng về phía Bắc.
“Có một câu chuyện khác,”
Priscilla tiếp tục, “Những cư dân người Pháp đầu tiên đã đặt tên là vùng Tout
Sucré, có nghĩa là ‘ngọt như đường’. Qua năm tháng người ta phát âm nó theo những
cách khác cho đến khi nó trở thành Toad Suck.”
Thật dễ hiểu tại sao những
cư dân đầu tiên đã đặt tên Tout Sucré – vùng đất trù phú và màu mỡ, những ngọn
đồi được bao phủ bởi những cây thân gỗ cứng, thung lũng phì nhiêu với đất phù
sa. Những rừng cây thích lấy mật đường đang bắt đầu chuyển màu, cành nhánh của
chúng được bao phủ bởi những chiếc lá màu lửa. Những nhánh sông cắt từ cao
nguyên Ozark xuyên qua thung lũng sông và chảy xuống những rặng núi Ouachita.
“Dòng họ Fiveash đã sống ở
Toad Suck từ rất lâu rồi,” Priscilla nói. “Họ làm việc chăm chỉ, đi lễ nhà thờ,
và gởi những đứa trẻ đến trường. Họ mua sắm tại Dollar Tree bởi vì họ không muốn
trưng diện bằng những lễ phục từ Walmart. Họ nghĩ rằng ăn tại chỗ có nghĩa là bắn
những con sóc của chính anh. Và khi những người bà con của tôi bắt đầu nói chuyện,
anh sẽ ước chúng đi kèm với phụ đề.”
“Sẽ không có bất kỳ vấn đề
nào đâu,” Jason nói, hơi ngạc nhiên với dấu hiệu phòng thủ trong giọng của cô.
“Chị biết tôi không phải là một kẻ hợm hĩnh mà.”
“Vâng, thưa ngài. Tất cả những
gì tôi đang nói là, anh nghĩ tôi có những khía cạnh kém văn minh khi tôi bắt đầu
làm việc tại Inary. Chà, so sánh với phần còn lại của gia đình tôi, tôi đã
trang nhã như công nương Di.” (Chắc là công nương Diana danh tiếng của Anh chăng?)
“Hiểu.” Jason nói, thầm
thích thú. “Sẽ không có vấn đề gì hết đâu, Priscilla.”
Cô gật đầu, trông vẫn có vẻ
bối rối. “Nhân tiện, anh sẽ không gặp mama của tôi đâu. Kể từ khi Daddy chết,
bà ấy không muốn dính líu gì với pháp thuật nữa. Chúng ta sẽ đến căn
double-wide* của Granny Fiveash. Anh sẽ gặp bà ấy và bà cô Bean của tôi, ông
chú Cletus. Dĩ nhiên, Cletus sẽ không giúp đỡ trong việc hô thần chú, vì ông ấy
là một người bình thường.”
(*Double-wide : một loại nhà lưu động
liên kết đôi)
“Có phù thuỷ nam nào không?
Một pháp sư?”
“Không, đó chỉ là một chuyện
hoang đường. Điều đó được nói trong Malleus Maleficarum…”
“Đó là cái gì?”
“Một quyển sách về săn phù
thuỷ được viết bởi một tu sĩ Công Giáo vào những năm 1400s. Nói rằng ác quỷ cám
dỗ phụ nữ bằng cách gởi các thiên thân sa ngã đẹp trai để quyến rũ họ… và phụ nữ
trở thành những kẻ trợ giúp của hắn. Đó là cách những phù thuỷ khởi đầu. Theo
giả thuyết. Nhưng hiện nay chẳng có điều gì của quỷ dữ liên quan đến người có
quyền năng pháp thuật.”
“Chị có phiền lòng khi nghĩ
đến tai ương của phù thuỷ không?” Jason thấy mình đang hỏi. “Hẳn là phải có. Chị
hẳn phải thấy lo lắng về việc sẽ vương vấn tình yêu với người nào đó.”
Priscilla lắc đầu chưng hửng,
màu sắc ửng lên trên má chị. Thật hiếm khi họ có một cuộc trò chuyện cá nhân đến
thế. “Thật ra, tôi không có. Toàn bộ cuộc đời tôi, tôi chỉ có một suy nghĩ làm
sao để thoát khỏi Toad Suck. Có được học vấn, làm việc cong đuôi… không có thời
gian dành cho chuyện yêu đương lãng mạn.” Chị có vẻ trầm tư khi nói thêm, “Mặc
dù tôi không còn sống ở đây nữa, vẫn có cảm giác giống như tôi đang cố trốn
thoát. Tôi luôn muốn thứ gì đó khác. Không chắc là cái gì. Tiền, tôi đoán vậy.
Mama nói tôi sẽ không bao giờ hạnh phúc cho tới khi tôi có đủ tiền để đốt cháy
một con la cứng đầu cứng cổ ướt sũng.”
“Không.” Jason nói lặng lẽ.
“Khi người ta lao đầu vào việc kiếm tiền, vấn đề không bao giờ là về tiền bạc.”
Priscilla rơi vào yên lặng
khi cô suy nghĩ về điều đó.
Đôi phút sau đó Jason nói.
“Đừng trở nên căng thẳng với việc thả lời nguyền này. Chỉ cần làm việc tốt nhất
của chị thôi.”
“Với anh thì thật dễ để nói.
Tôi mới là người phải làm nó cho đúng. Pháp thuật không phải là toán học để có
câu trả lời chính xác. Đôi khi đó là một lựa chọn giữa nhiều câu trả lời xấu.
Hay tệ hơn, nhiều câu trả lời nghe có vẻ đúng.”
Jason cố nghĩ thứ gì đó có
thể làm giảm đi áp lực cho chị. “Priscilla, chị có biết cú đánh khó nhất trong
golf là gì không?”
“Cối xay gió.” Chị nói dứt
khoát.
“Gì cơ?... Không, tôi không
nói về Putt-Putt*. Ý tôi là môn chơi golf thật sự. Cú đánh khó nhất là một cú
bunker dài.” Liếc nhìn gương mặt trống rỗng của chị, Jason nói, “Khi trái banh
bị mắc kẹt trong một hố cát. Chỉ có hai cách để đối phó. Chị hoặc là Pitch nó
hoặc Blast nó. Pitching là một cú đánh ngắn, rủi ro thấp, chỉ mang được banh ra
khỏi hố. Blast nó bằng một cú bạt mạnh mẽ, dài sẽ kết thúc trong vinh quang hoặc
hoàn toàn thất bại.”
(*Putt-putt : một kiểu sân golf thu nhỏ
với các chướng ngại vật nhân tạo, trong đó mô hình cối xay gió được dùng như một
chướng ngại vật di chuyển được.)
“Vậy ra anh đang nói rằng
khi chúng ta thử lời nguyền pháp thuật tối nay, anh muốn chơi theo kiểu rủi ro
lớn.”
“Không. Chơi an toàn. Chúng
quá quan trọng để đánh liều mọi thứ. Chỉ tiến hành với cú pitch ngắn, đẩy tôi
ra khỏi cái hố chết tiệt ấy. Nếu chị có thể mang lại cho tôi thêm vài năm với
Justine, tôi sẽ làm cho chúng đáng với toàn bộ một cuộc đời.
Priscilla nhìn anh băn
khoăn. “Anh đã yêu cô ấy rồi.”
“Dĩ nhiên tôi yêu. Chị nghĩ
gì thế?”
“Tôi đã nghĩ anh chỉ làm
thân với cô ấy vì quyển sách ước.”
Anh bắn cho cô một ánh mắt bị
xúc phạm. “Tại sao việc tôi có thể yêu ai đó lại khó tin đến thế?”
“Bởi vì mỗi khi anh chia tay
với một người phụ nữ, anh bảo tôi mua cho cô ta món nữ trang đắt giá nào đó và
quấn nó vào cô ta. Những hoá đơn Tiffany của anh đã tạo bong bóng kinh tế cho
thị trường kim loại quý đấy.”
Jason cau có, giữ ánh mắt
anh vào con đường. “Justine khác với những người khác.”
“Tại sao? Bởi vì cô ấy là một
phù thuỷ ư?”
“Bởi vì cô ấy là Justine.”
Priscilla nhìn chằm chằm xuống
Triodecad, xoa những vòng tròn trên đó. “Cô ấy có yêu anh không?” Cô thận trọng
hỏi.
“Tôi nghĩ thế.” Jason chuyển
hướng để tránh một con kền kền đang ăn thú vật chết trên đường. “Và tôi muốn sống
đủ lâu để cố xứng đáng với điều đó.”
“Vậy thì tôi tốt hơn nên tìm
một lời nguyền có sức mạnh vượt trội.” Lời đáp chua chát của cô vang lên.
Sau chuyến lái xe mười lăm
phút, họ rẽ vào Toad Suck Park. Priscilla hướng dẫn anh đi theo một loạt các
ngã rẽ, những con đường hẹp dần và gồ ghề hơn, cho đến khi họ vươn đến một lối
vào riêng trải sỏi đã bị xói mòn, những chiếc bánh xe lún vào trong những ổ gà
sâu. Họ cố vượt lên tiến đến căn double-wide mắc kẹt trong một khu rừng nhỏ những
cây sơn thù du. Một nhà xe lưu động có hiên trước được ứng biến từ một tấm ván
ép đã bị oằn và một bộ ghế nhựa. Một con chó chẳng biết thuộc giống gì nằm lười
nhác tại một góc của tấm ván ép, chiếc đuôi nham nhở của nó quẫy mạnh khi nhìn
thấy chiếc xe hơi tiến đến.
“Thoạt đầu chắc họ sẽ có vẻ
hơi điên khùng một chút,” Priscilla nói khi Jason dừng xe. “Nhưng sau khi anh
biết họ … thậm chí trông họ còn có vẻ điên khùng nhiều hơn.”
“Không đánh giá gì hết.”
Jason cam đoan với chị. Đó là một trong những thứ anh đã học được từ San
Francisco trong mười năm gần đây. Một người với mái tóc bảy màu cầu vồng và đeo
nhiều khuyên có thể là một tay triệu phú, hoặc ai đó ăn mặc như thể anh ta lượm
mớ quần áo của anh ta từ một thùng rác, là một người dẫn đầu cộng đồng được tôn
trọng. Những thành kiến chẳng giúp ích được gì, chưa kể đến ngu ngốc nữa.
Ra khỏi xe, Jason bị ấn tượng
trước cảnh thanh bình của khu vực. Tất cả những gì anh có thể nghe là tiếng mổ
lách tách của chim gõ kiến trên bụi cây thông hoặc tuyết tùng gần đó, và tiếng
rì rào của một nhánh sông. Không khí đặc quánh hơi nước như thể được toả từ chiếc
bàn ủi hơi. Một luồng gió của miền đất trũng uể oải mang theo mùi của cỏ chín
và nhựa thông.
Sự yên lặng bị phá vỡ bởi tiếng
lao xao của một cặp phụ nữ luống tuổi xuất hiện từ nhà xe, cả hai đều khua xủng
xoảng các món nữ trang. Cả hai đều phải tám mươi tuổi. Họ ăn mặc tượng tự nhau trong
dép xỏ ngón, áo ngắn màu sắc sặc sỡ và quần lửng. Một trong họ có mái tóc cuộn
lên giống như cây kem ốc quế vanilla từ Dairy Queen*, và người kia, gây shock với
mái tóc màu đỏ lửa. Hò reo và huyên thuyên không ngừng, cả hai đổ xô đến
Priscilla và ôm chị vào giữa họ.
(*Dairy Queen : Một hệ thống chuỗi cửa
hàng kem và bánh ngọt lạnh nổi tiếng của Mỹ thuộc tập đoàn Bershire Hathaway của
tỷ phú Warren Buffet thành lập từ năm 1940)
“Prissy, cháu yêu, cháu chỉ
toàn da với xương,” Người tóc đỏ la lên. “Ở California người ta không có cháu
ăn sao?”
“Dĩ nhiên là họ không rồi,”
Người kia nói trước khi Priscilla có thể đáp. “Tất cả những gì người hippy vùng
West Coast bọn họ ăn là những lát cải xoăn.” Bà tươi cười với Priscilla. “Chúng
ta đã nấu cho cháu một vài thức ăn thực sự, cháu gái à. Thịt hầm xúc xích và
bánh biscuit táo.”
Priscilla bật cười và hôn
lên gò má như da thuộc của bà. “Granny, bà cô Bean… Cháu muốn các bà gặp gỡ ông
chủ của cháu, Mr.Black.”
“Cậu ta làm chủ công ty máy
tính mà cháu làm việc à?”
“Trò chơi Video,” Jason nói,
đi vòng qua chiếc xe để tiến lại gần họ. Anh giơ một tay với người tóc đỏ. “Làm
ơn gọi tôi là Jason.”
“Công nghệ máy tính sẽ phá
huỷ thế giới này,” Bà nói, lờ đi bàn tay đang giơ ra của anh. “Chúng tôi không
quan tâm chuyện bắt tay, cưng à, chúng tôi chỉ ôm thôi.” Bà quàng một cánh tay
quanh anh, bao bọc anh trong một hỗn hợp các mùi hương gây bối rối : sản phẩm
chăm sóc tóc, nước hoa, chất khử mùi, kem dưỡng thể và một mùi rõ rệt của thuốc
xịt côn trùng. “Tôi là bà ngoại của Priscilla,” Bà bảo Jason. “Cậu cũng có thể
gọi tôi như thế.”
Người phụ nữ tóc kiểu
vanilla cũng đến để ôm Jason, thân trên của bà mạnh mẽ, ngắn và tròn trĩnh như
chiếc thùng tô-nô. “Tôi thường là Wilhelmina, nhưng dân làng cứ thích gọi tôi
là Bean khi tôi là một đứa trẻ và mắc kẹt luôn với nó.”
Vì có vẻ như cả hai người phụ
nữ đều không có khuynh hướng thả tay anh ra, Jason đi đến nhà xe với Granny và
Bean mỗi người ở một bên người. Priscilla đi theo sau cùng với quyển sách ước.
Một luồng hơi lạnh phả vào họ ngay khi cửa trước mở ra. Một chiếc máy điều hoà
không khí kêu ù ù chỗ cửa sổ, làm mát lạnh khu vực bên trong nhà xe ở nhiệt độ
bắc cực. Họ đi vào phòng sinh hoạt chung, bức tường chính được che phủ bằng những
chiếc dĩa thiếc không trật tự.
Ngôi nhà sạch sẽ, nhưng lèn
chặt những chiếc bàn và các kệ đồ sưu tập : những bức tượng nhỏ, liềm hái nho
và những vại ruồi, nút chai, bánh cookie. Điều đó khiến cho Jason, luôn ưa
thích sự thanh đạm và không gian gọn gàng, cảm thấy nỗi sợ bị giam giữ mờ nhạt.
Khi anh nhìn thấy cả hai cửa sổ bếp bị lấp kín bằng các chai bia và bình giữ
nhiệt kim loại, anh buộc phải lấy một hơi thở bình tĩnh.
“Bây giờ,” Granny nói với
Priscilla, “chúng ta hãy nhìn một cái vào quyển sách ước xem nào.”
“Nó rất cũ,” Jason nói, bứt
rứt trước viễn cảnh quyển sách phép quý báu của Justine nằm trên cùng một bàn với
những thứ như xoong thịt hầm trắng kẽm bốc mùi xúc xích và tương cà. “Tôi không
thể để bất kỳ điều gì xảy ra với nó.”
“Chúng tôi sẽ cẩn thận.”
Granny trao cho Jason mốt ánh mắt tinh ranh. “Không bao giờ nghĩ tôi sẽ nhìn thấy
một trong những thứ này, đặc biệt không phải thứ có một cái tên.”
“Chúng tôi chưa bao giờ
nghiên cứu pháp thuật từ một quyển sách phép,” Bean nói, nhìn theo ánh mắt của
Jason đến nồi thịt hầm. Bà mang món ăn ra khỏi bàn, đặt nó trên mặt quầy bếp và
lau tay vào chiếc áo ngắn của bà. “Chỉ những người có siêu năng loại tinh hoa mới
có thứ đó. Chúng tôi luôn giữ những lời nguyền và cách thức của chúng tôi trên
những tấm thẻ công thức.”
“Một quyển sách giống như thế
này,” Granny nói, “có nhiều quyền năng hơn những thứ được viết trên những tờ giấy.”
Bà lão buột ra một hơi thở
nhỏ tán thưởng khi Priscilla mở khăn gói Triodecad. Lớp bìa da lập loè giống
như sự hoàn thiện của quả mận đen. Một ổ khoá bằng đồng nằm ở trung tâm trong một
thiết kể mặt đồng hồ lạ thường. Cho dù Jason không biết giá trị siêu nhiên của
quyển sách, anh cũng sẽ nhận ra ngay lập tức đó là một cổ vật vô giá.
“Sao lại là một mặt đồng hồ
?”
“Đó không phải đồng hồ chỉ
thời gian đâu,” Granny đáp. “Đó là những tuần trăng. Trái đất ở đây, tại trung
tâm.” Bà lần theo ranh giới vô hình từ ổ khoá đến mỗi điểm ở vòng tròn bên
ngoài. Một phần tư tuần trăng đầu tiên nằm trên đỉnh… trăng khuyết bên cạnh…
trăng tròn ở ngay đó…” Ngón tay bà di chuyển đến rìa của bìa sách. “Mặt trời sẽ
chiếu sáng từ hướng này.”
Một cái cau mày xáo trộn kéo
nhăn vầng trán của Priscilla. “Tối nay là đêm trăng tròn, Granny. Đó có phải thời
gian thích hợp để thả lời nguyền không?”
“Tuỳ thuộc vào lời nguyền.
Chúng ta cần phải đọc một số, cháu và ta và Bean, để tìm ra điều gì tốt nhất.
Granny quay nhìn Jason và nói với vẻ thương cảm. “Prissy đã nói với tôi những
gì chúng ta đã thoả thuận. Giữa việc thiếu linh hồn và tai ương phù thuỷ, cậu
có nhiều vấn đề hơn một quyển sách toán. Và chúng tôi chỉ có thể thả một lời
nguyền mỗi lần, hoặc là chúng bắt đầu huỷ bỏ lẫn nhau.” Bà ngừng lại. “Ai giữ
chìa khoá?”
“Tôi.” Jason nói, kéo ra sợi
chuỗi từ bên dưới áo polo của anh.
Granny nhận nó từ anh với một
cái gật đầu thiết thực. “Bean à, trước khi chúng ta mở quyển sách, tôi nghĩ
chúng ta tốt nhất nên quét bếp bằng một cái chổi xể.”
“Tôi sẽ tìm nó.” Bean nói,
lao xuống hành lang hẹp.
“Jason,” Granny tiếp tục,
“Chúng tôi sẽ đọc một lúc. Nhấc chân cậu lên nếu cậu thích. Cậu có thể xem TV. Razorbacks*
đang chơi cùng Aggies* đấy.”
(*Razorbacks và Aggies là hai đội bóng
bầu dục của trường đại học, Razorbacks của trường đại học Arkansas và Aggies của
trường đại học Texas A&M )
“Bà có phiền nếu tôi đi dạo
một chút không?”
“Cứ đi đi.”
Khi Jason nhặt mắt kính mát
của anh lên khỏi bàn và xoay người ra cửa, Bean lao đến anh với một bình phun
và bắt đầu xịt. Anh lùi tránh theo phản xạ trong lúc Bean hướng vòi phun trên ống
quần anh và thậm chí với đến gấu quần để phun lên mắt cá chân của anh. Mùi thuốc
diệt con trùng điền đầy không khí trong một đám mây độc hại. “Không. Thật đấy.
Tôi không…”
“Cầu cần nó,” Bean nói với vẻ
uy quyền, đi ra đàng sau anh, không ngừng xịt.
“Cậu không biết về giống muỗi
Arkansas.” Granny bảo anh. “Trong mười phút chúng sẽ hút khô máu cậu y như con
heo trong ngày giết mổ.”
“Ái chà chà,” Giọng Bean
vang lên phía sau anh. “Đây là thứ mà tôi gọi là cặp mông siêu đẳng.”
Jason trượt một ánh mắt hẹp
vào Priscilla, có vẻ như cô đang cố kềm một nụ cười toe toét. “Cám ơn.” Anh lầm
bầm, và chuồn êm ngay khi Bean làm xong.
“Thêm một điều nữa,” Granny
gọi với theo sau anh. “Nếu cậu trông thấy Cletus trên tầng trên, đừng quan tâm
gì đến ông ấy.” Cánh cửa đóng lại.
Jason ngừng bước giữa chừng.
“Làm quái gì có tầng trên trong một căn nhà xe lưu động chứ.” Anh nói thành tiếng.
Chậm rãi anh đi vơ vẩn quanh
cấu trúc ọp ẹp. Anh khám phá ra rằng những cây sơn thù du ở phía trước căn nhà
xe đã che khuất một chiếc ghế cắm trại, một thùng giữ lạnh bằng nhựa, và một
chiếc dù gỗ, tất cả được sắp xếp trên một góc mái bằng. Chiếc ghế đã bị chiếm cứ
bởi một ông già đội nón câu cá, quần short, và một chiếc áo thun với tuyên ngôn
KHÔNG CHỈ LÀ MỘT NGƯỜI HOÀN HẢO, TÔI CÒN LÀ MỘT NGƯỜI MIỀN NAM NỮA. Ông già
nhìn chăm chú vào chiếc điện thoại di động trong một tay và tay kia giữ một
chai beer.
“Cletus?” Jason thận trọng hỏi.
Người đàn ông đáp mà không dời
mắt khỏi chiếc điện thoại. “Đúng là tôi. Cậu là người mà con bé Priscilla đưa về
thăm đấy ư?”
“Vâng. Jason.”
“Lên đây đi và lấy một chai
ướp lạnh.” Ông chỉ vào một chiếc thang chống vào bên nhà xe.
Jason trèo lên mái, thứ được
che phủ bằng một lớp cao su dày đến mức bốc mùi vỏ xe mới nồng nặc.
Anh tiến gần ông già, và họ
bắt tay nhanh. Đôi mắt của Cletus là hai đồng xu xanh ngắt bên dưới đôi chân
mày sâu róm màu bạc. Làn da ông gần như nâu và có kết cấu như những chiếc lá
thuốc khô. Phần lớn những người cao tuổi như Cletus sẽ không thể trèo được nữa.
Nhưng ông rắn rỏi, phong sương với đôi cánh tay như sợi thừng và thân thể dẻo
dai.
Với tay vào bên trong thùng
giữ lạnh, Cletus kéo ra một lon bia ướt sũng và trao nó cho anh.
“Cám ơn.” Jason ngồi trên
rìa mái bên dưới chiếc dù.
“Đoán là cậu đến đây để nhờ
Bean và Granny áp dụng một thần chú cho cậu.” Cletus nói.
“Kế hoạch là như thế.” Jason
mở lon bia và uống một hơi dài. “Ông là ông chú của Priscilla sao?”
“Thông gia thôi. Anh sinh
đôi của tôi, Clive, đã kết hôn với Bean, từ rất lâu rồi. Ông ấy chết khi bị một
con ong tấn công sáu tuần sau đám cưới của họ.”
“Ông ấy bị dị ứng với nọc
ong ư?”
“Dị ứng với những lời nguyền
thì đúng hơn. Clive biết rủi ro khi cưới Bean. Mọi người đều biết về những phụ
nữ Fiveash. Những goá phụ đen, tất cả bọn họ. Họ không thể ngăn được điều đó. Cậu
kết đôi với một người trong số họ và rồi cậu sẽ chết.”
“Tại sao Clive cưới Bean nếu
như ông ấy đã biết về điều đó?”
“Bean là một người xinh đẹp
trong những ngày đó, và Clive điên cuồng vì bà ấy. Nói rằng anh ấy phải có được
bà, bất kể có bị nguyền rủa hay là không. Không ai có thể biết được cảm xúc bên
trong anh ấy, ngay cả Bean cũng không. Anh ấy đã là người chết ngay lần đầu
tiên anh ấy để mắt đến bà.”
“Tôi biết cảm xúc ấy,” Jason
nói không chút hài hước.
Uống xong beer, Cletus đập bẹp
lon bia và ném ra khỏi mái nhà. “Lời nguyền theo đuổi tất cả những phụ nữ nhà
Fiveash. Tôi hy vọng là cậu không để ý Priscilla.”
“Không, thưa ông.”
“Vậy thì tốt. Hãy giữ nguyên
như thế. Cậu không muốn kết thúc giống như Clive đâu. Hoặc chồng của Granny,
Bo.”
“Ông ấy chết thế nào?”
“Bị sét đánh trên bến phà
Toad Suck, ngã ra sau khi vẫn còn những chuyến phà.” Cletus ngừng lại ngẫm
nghĩ. “Một tuần trước khi việc đó xảy ra, Bo nói với tôi rằng bất cứ nơi nào
ông ấy tới, những chiếc đồng hồ ngừng đếm nhịp. Đồng hồ đeo tay của ông ấy chết
ngắc. Quỷ thật, ngay cả chiếc đồng hồ cát để đếm thời gian luộc trứng trong bếp
cũng lộn xộn khi Bo lại gần nó.” Ông kéo tay nẳm để mở một lon bia mới. “Điều kỳ
lạ là, Clive đã kể với tôi anh ấy cũng gặp vấn đề tương tự ngay trước khi tai nạn
xảy ra. Anh ấy luôn xuất hiện đúng giờ làm việc mỗi ngày trong cuộc đời anh ấy,
nhưng bắt đầu đi trễ do mọi chiếc đồng hồ trong nhà đã ngừng hoạt động. Một tuần
sau đó, Clive mất.”
Jason nhìn chằm chằm vào ông
một cách cảnh giác. “Mỗi người họ đều chết một tuần sau khi những chiếc đồng hồ
ngừng hoạt động sao?” Ánh mắt anh hạ thấp xuống chiếc đồng hồ bằng thép không rỉ
của anh. Nhẹ nhõm khi thấy nó vẫn đang hoạt động, anh buột ra một tiếng thở dài
đã bị kềm nén lại.
Trước khi anh nhìn lên, anh
nghe Cletus nói nhẹ nhàng. “Chàng trai, cậu đang gặp rắc rối, đúng không?”
***
Sau khi bầu bạn với Cletus
trong khoảng một giờ, Jason trèo xuống và đi vào nhà xe. Ba người phụ nữ tập
trung dữ dội vào Triodecad.
“Thế nào rồi?” Jason hỏi.
“Quyển sách này thật không
thể tin nổi,” Priscilla nói. “Có những câu thần chú gần như cho mọi thứ mà anh
có thể hình dung.”
“Chị có tìm ra được điều gì
chống lại tai ương phù thuỷ không?”
Pricilla lắc đầu. “Không có
gì đặc biệt. Thật phi lý, bởi vì trải qua tất cả các thế hệ phù thuỷ bẩm sinh,
ai đó hẳn đã cố sửa chữa vấn đề này rồi. Tại sao không ai viết thứ gì đó xuống?”
“Bean và tôi đã cố cứu chồng
của chúng tôi,” Granny nói “Khi điều đó không hiệu quả, chúng tôi cho rằng pháp
thuật của chúng tôi quá yếu, vì chúng tôi chưa bao giờ được giáo dục trong việc
hô thần chú. Nhưng tôi nghĩ một quyển sách như thế này sẽ có câu trả lời.”
Jason tập trung vào Priscilla.
“Cú pitching khỏi hố cát ra sao rồi?”
“Chúng tôi tìm thấy một lời
nguyền trường thọ,” Cô nói. “Một thần chú quyền năng, xét theo vẻ ngoài của
nó.”
Anh giữ một vẻ mặt trung lập.
“Có bất kỳ trở ngại nào đối với thần chú trường thọ không?”
“Không phải những gì chúng
tôi nghĩ đến. Mọi người đều muốn sống lâu, đúng không?” Cô cau mày. “Nhưng anh
đã hỏi không đúng người rồi. Không ai trong chúng tôi được huấn luyện ở mức độ
này của pháp thuật. Về cơ bản anh đang hỏi người chỉ biến được Hamburger
Helper* để triệu tập một món khai vị từ Mastering the Art of France Cooking*.
(*Hamburger Helper : Một thương hiệu mỳ
ống đóng hộp sẵn với nhiều loại hương vị để chọn lựa.
*Mastering the Art of French Cooking :
sách dạy nấu ăn gổm 2 tập do đầu bếp Pháp Simone Beck và Louisette Bertholle hợp
tác với Julia Child của Mỹ phát hành tại Mỹ.)
Jason không quên lời cảnh
báo của Justine về lời nguyền trường thọ… rồi
ngày nào đó anh có thể sẽ kết thúc với việc nài nỉ được chết. Tuy nhiên vào
khoảnh khắc này, trường thọ là câu trả lời cho mọi thứ. Nó sẽ cho phép anh được
ở cùng Justine, và đó cũng là cơ hội tốt nhất để tránh được tai ương phù thuỷ.
“Có một lời nguyền khác mà
tôi muốn thêm vào.” Priscilla nói.
Chân mày của anh nhướng
lên.”Tôi nghĩ luật quy định chỉ một lời nguyền cho một người thôi mà.”
“Lời nguyền thứ hai không phải
dành cho anh. Nó được dành cho Justine.”
Jason im lặng, lắng nghe
chăm chú.
“Chúng tôi mốn trói buộc một
geas trên cô ấy,” Priscilla nói lặng lẽ. “Gần với nguyên bản nhất có thể. Nó có
thể không hoàn toàn tốt, nhưng chúng tôi nghĩ với ba người chúng tôi…”
“Không.”
“Cô ấy sẽ tốt hơn và anh
cũng thế.”
“Không thảo luận thêm nữa.”
“Anh sẽ có những gì anh muốn
ngay từ khởi đầu,” Priscilla khăng khăng, trở nên đỏ bừng. “Anh sẽ có thêm nhiều
thời gian được sống và anh sẽ được an toàn với Justine.”
“Nếu số phận của toàn thế giới
được thăng bằng, tôi sẽ không để một geas trói buộc trên Justine một lần nữa.”
“Cậu sẽ vẫn còn trẻ,” Bean
nói. “Cậu có thể tìm được ai đó khác.”
Anh lắc đầu. “Chỉ Justine hoặc
không ai hết.”
Priscilla trừng mắt nhìn
anh. “Anh hành động điên khùng y như con cá viền đỏ bị bơm thuốc ấy. Anh đâu đã
biết cô ấy đủ lâu để kết luận lựa chọn đó.”
Jason đón lấy ánh mắt cô mà
không chớp. “Dĩ nhiên là tôi có. Ngày nào đó cuộc đời chị sẽ thay đổi chỉ trong
một giây ngắn ngủi. Thứ gì đó mà chị không bao giờ mong đợi sẽ đánh vào chị giống
như một khúc gỗ hai nhân bốn (~5x10cm) Và chẳng có đủ thời gian để suy đoán tại
sao hay điều gì vừa xảy ra. Chị chỉ có thể chấp nhận điều đó.”
“Không, Tôi sẽ tự nhắc nhở bản
thân rằng vài thứ phải bị bỏ qua từ trước khi bắt đầu,” Priscilla nói.
Jason liếc nhìn gương mặt điềm
tĩnh của Granny và Bean. “Cho tôi phát bắn tốt nhất của các vị với lời nguyền
trường thọ, và tôi sẽ trả gấp đôi những gì chúng ta đã thoả thuận. Nhưng hãy để
Justine bên ngoài chuyện này.”
“Tôi không nghĩ…” Granny
nói.
“Gấp ba” Jason bảo bà.
Granny và Bean nhìn nhau.
“Chúng ta hãy tiến hành
thôi,” Granny nói một cách lanh lợi. “Priscilla, Cháu lo việc tạo hình vòng
tròn. Bean, chúng ta cần chén lễ và khăn phủ bàn thờ.”
Bean đến bên bậu cửa sổ kiếm
một chiếc vại có thành dày được in logo của hãng bia Budweiser.
“Đó là chén lễ ư?” Jason hỏi
thẳng thừng.
“Chắc chắn là thế. Chúng tôi
đã thực hiện phép thuật tốt nhất của chúng tôi với nó.” Với tay vào trong ngăn
kéo, Bean kéo ra một chiếc khăn lau dĩa và trải nó trên mặt quầy bếp.
Sau khi liếc nhìn chiếc khăn
phủ được in hình âm bản của Elvis* đang chơi guitar, Jason trao cho Priscilla một
ánh mắt ngờ vực.
“Không quan trọng khăn phủ
bàn thời trông như thế nào,” Chị bảo anh với giọng khe khẽ, trong lúc hai người
phụ nữ già bận rộn với việc chuẩn bị. “Hãy để họ tiến hành theo cách của họ. Họ
biết việc gì là tốt nhất với họ.” Sau một khoảng ngừng ngắn, chị nói thêm, “Và
đừng lên cơn choáng nếu họ đề cập đến Dionne Warwick* một đôi lần trong suốt cuộc
hô thần chú. Điều đó làm Bean vui vẻ, và các thần linh cũng chẳng phiền chút
nào đâu.”
(*Elvis Presley : Vua nhạc rock and
roll, ca sĩ và diễn viên huyền thoại của Mỹ thời 60s, 70s. Sự nghiệp đỉnh cao
kéo dài trên 2 thập kỷ, từ năm 20 cho đến khi mất vào tuổi 42. Chuyện ít người
biết, ông còn là một môn đồ Karatedo với đai đen)
(*Dionne
Warwich : nữ ca sĩ, diễn viên, MC người Mỹ gốc phi, cũng là đại sứ toàn cầu của
Liên hiệp quốc về lương nông (FAO) và đại sứ Mỹ về sức khoẻ. Warwick được xếp hạng
trong 40 nhà sản xuất tác động lớn nhất của toàn bộ thời kỳ rock, dựa trên bảng
xếp hạng Billboard Hot 100 Singles Charts Pop. Dionne Warwick cũng được xếp thứ
hai chỉ sau Aretha Franklin trong danh hiệu Nữ ca sĩ của mọi thời đại với 69
đĩa đơn của Dionne làm cho bảng xếp hạng Billboard Hot 100 từ năm 1962 đến năm
1998.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét