Thứ Năm, 28 tháng 9, 2017

Mật mã 3 - Chương 38

Chương 38






"Thím phải ăn thứ gì đó," Gallowglass khăng khăng, nhấn một cái bánh sandwich vào tay tôi.

"Tôi phải trở vào trong đó. Cuộc bỏ phiếu thứ hai sẽ diễn ra sớm." Tôi đẩy bánh sandwich đi.

Baldwin đã, trong số rất nhiều hướng dẫn khác của mình, nhắc nhở tôi về thủ tục bỏ phiếu công phu của Đại Hội Đồng: ba lần bỏ phiếu trên bất kỳ kiến nghị nào, với các cuộc thảo luận ở giữa chừng. Thật bình thường khi các phiếu dao động dữ dội từ vị trí này sang vị trí khác khi các thành viên Hội Đồng xem xét - hay là giả vờ xem xét - quan điểm đối lập.

Tôi đã thua lần bỏ phiếu đầu tiên, tám chống và một thuận - là tôi. Một số đã bỏ phiếu chống lại tôi về lý do thủ tục, do bởi Matthew và tôi đã vi phạm các giao ước và các Đại Hội Đồng đã bình chọn duy trì hiệp ước cổ xưa đó. Những người khác bỏ phiếu chống vì tai họa của chứng cuồng máu đe dọa sức khỏe và sự an toàn của tất cả các máu nóng - daemon, con người, và phù thủy. Tin tức trên báo về những ma cà rồng giết người đã được lan truyền và công bố. Tatiana phản đối giải cứu những phù thủy của Chelm, cô vừa khóc vừa tuyên bố, đó là những kẻ đã ếm bùa người bà đang đi nghỉ mát của cô khiến bà ấy vỡ thành những bong bóng nước. Không có số lượng lời giải thích nào có thể thuyết phục Tatiana rằng thực ra cô đang nghĩ về Cheboksary, mặc dù Rima đem ra cả không ảnh để chứng minh rằng Chelm không phải là một vị trí sát bờ biển trên sông Volga.

"Có lời nào từ Baldwin hoặc Verin không?" Tôi hỏi. Isola della Stella tiếp nhận sóng điện thoại di động rất kém, và trong các bức tường của Celestina cách duy nhất để nắm bắt được một tín hiệu là đứng ở trung tâm lộ thiên của tu viện đang trong một trận mưa như trút nước.

"Không." Gallowglass đặt một cốc trà vào trong tay tôi và đóng các ngón tay của tôi xung quanh nó. "Uống đi."

Lo lắng cho Matthew và mất kiên nhẫn với các quy tắc và các quy định Byzantine* cổ lỗ của Đại Hội Đồng đã khiến dạ dày tôi đảo lộn. Tôi đưa cốc lại cho Gallowglass, không đụng đến.

* Byzantine : Là tên cổ đại của Đế quốc Đông La Mã, hay Đế quốc Hy Lạp, tồn tại từ năm 330-1453 đóng đô ở Constantinopolis, bị tan rã bởi Đế Quốc Ottoman vào XV – Ct của Sẻ.

"Đừng để tâm đến quyết định của Đại Hội Đồng, Thím. Cha tôi luôn nói rằng cuộc bỏ phiếu đầu tiên cốt chỉ để khoe mẽ và cuộc bỏ phiếu thứ hai thường đảo ngược cái đầu tiên ".

Tôi nhặt chiếc túi đừng đồ của Bodleian lên, gật đầu, và quay trở lại buồng Hội đồng. Những ánh mắt thù địch tôi nhận được từ Gerbert và Domenico ngay khi tôi vào bên trong khiến tôi tự hỏi, liệu Hugh có phải là một người lạc quan khi nói đến  hoạt động chính trị của Đại Hội Đồng hay không.

"Cuồng máu!" Gerbert rít lên, nắm lấy cánh tay của tôi. "Làm thế nào nhà De Clermonts giấu điều này khỏi chúng tôi?"

"Tôi không biết, Gerbert," tôi trả lời, lắc khỏi tay ra. "Ysabeau đã sống dưới mái nhà của ông trong nhiều tuần và ông đã không bao giờ phát hiện ra nó."

"Đã mười giờ rưỡi rồi." Sidonie von Borcke sải bước vào phòng. "Chúng ta sẽ tạm hoãn vào lúc nửa đêm. Hãy giải quyết vấn đề bẩn thỉu này và chuyển đến các vấn đề quan trọng hơn - như là điều tra của chúng tôi về sự vi phạm giao ước của gia đình Bishop."

Không có gì bức bách nhiều hơn việc giải thoát thế giới khỏi Benjamin nhưng tôi cắn lưỡi mình lại và lấy chiếc ghế của tôi, đặt túi đồ trên bàn trước mặt. Domenico vươn tay đến nó, vẫn còn tò mò về thứ chứa bên trong.

"Không." Tôi nhìn hắn ta. Rõ ràng đôi mắt của tôi có trọng lượng, bởi vì hắn rút tay của mình lại một cách nhanh chóng.

"Vậy, Sidonie, tôi hiểu bà đã gọi điện thoại để hỏi?" Tôi hỏi bà ấy đột ngột. Bất kể các cuộc gọi của bà có mang lại một giải pháp nhanh chóng hay không, bà ta vẫn chứng tỏ là một trở ngại chính cho cuộc thảo luận, rút ra từ mỗi trao đổi những chi tiết không liên quan cho đến khi tôi sẵn sàng hét lên.

"Không gì cả", bà ta gắt gỏng. "Tôi chỉ muốn chúng ta xem xét  vấn đề với các khả năng thích hợp."

"Tôi vẫn phản đối việc can thiệp vào những thứ rõ ràng là một vấn đề gia đình," Gerbert nói. "Đề nghị của Madame de Clermont yêu cầu mở rộng vấn đề không may này cần phải xem xét kỹ lưỡng hơn. Hội Hiệp Sĩ Lazarus đã đến hiện trường rồi và đang tìm kiếm chồng của cô ấy. Tốt nhất là để cho các vấn đề theo đúng lộ trình của chúng."

"Và chứng cuồng máu?" Đây là lần đầu tiên Satu nói bất cứ điều gì ngoại trừ  "Không" khi kêu gọi bỏ phiếu đầu tiên.

"Cuồng máu là một vấn đề của ma cà rồng xử lý. Chúng tôi sẽ kỷ luật gia đình de Clermont về sai sót nghiêm trọng của họ trong sự phán xét và có biện pháp thích hợp để định vị và tiêu diệt tất cả những người có thể bị nhiễm bệnh." Gerbert giơ những ngón tay của mình lên và nhìn xung quanh bàn. "Tất cả các vị có thể yên tâm về điểm đó."

"Tôi đồng ý với Gerbert. Hơn nữa, không nhánh nào có thể được thành lập dựa trên một trưởng đàn bị bệnh", Domenico nói. "Thật không thể tưởng tượng. Matthew Clairmont phải bị xử tử, và tất cả các con của anh ta cũng vậy." Đôi mắt của gã ma cà rồng lấp lánh.

Osamu giơ tay lên và chờ đợi để được công nhận.

"Vâng, ông Watanabe?" Tôi gật đầu về phía anh ta.

"Một thợ dệt là gì?", Anh ta hỏi. "Và họ có gì chung với ma cà rồng có chứng cuồng máu?"

"Điều gì làm cho ông nghĩ rằng họ có điểm gì chung?" Sidonie cáu kỉnh.

"Chỉ là nghe có vẻ hợp lý rằng ma cà rồng cuồng máu và phù thủy thợ dệt có điểm gì đó chung. Nói cách khác, làm thế nào có thể Diana và Matthew có thể có con được?" Agatha nhìn tôi chờ đợi. Trước khi tôi kịp trả lời, Gerbert đã đứng lên và lù lù hiện ra phía trên tôi.

"Đó là những gì Matthew đã phát hiện trong Sách Sự Sống sao?", lão hỏi. "Cô đã đào bới lên được một câu thần chú kết hợp hai loài à?"

"Ngồi xuống, Gerbert." Janet đã đan đều đặn trong nhiều giờ, thỉnh thoảng nhìn lên để đưa ra nhận xét đúng đắn hoặc mỉm cười nhân hậu.

"Phù thủy phải trả lời!" Gerbert kêu lên. "Thần chú nào đã làm việc này, và làm thế nào cô thực hiện nó?"

"Câu trả lời ở trong Sách Sự Sống." Tôi kéo túi đựng đồ về phía tôi và rút ra một quyển sách đã được giấu quá lâu trong thư viện Bodleian.

Có những tiếng hổn hển ngạc nhiên xung quanh bàn.

"Đây là một mẹo lừa," Sidonie loan báo. Bà ta đứng lên và vòng qua bàn. "Nếu đó là cuốn sách bùa chú bị mất của phù thuỷ, tôi yêu cầu kiểm tra nó."

"Đó là lịch sử bị mất của ma cà rồng", Domenico gầm lên khi bà ta bước qua ghế của hắn.

"Đây." Tôi trao Sách Sự Sống cho Sidonie.

Người phù thủy cố gắng để bật các móc cài, đẩy và kéo vào các khớp nối bằng kim loại, nhưng cuốn sách từ chối hợp tác với bà ta. Tôi giơ đôi bàn tay ra và cuốn sách đã bay qua không gian giữa chúng tôi, mong muốn được trở lại nơi mà nó thuộc về. Sidonie và Gerbert trao đổi một cái nhìn dài.

"Cô đã mở nó, Diana," Agatha nói, tròn mắt. Tôi nghĩ về những gì bà đã nói ở Oxford tất cả những tháng trước đó – rằng Ashmole 782 thuộc về các daemons cũng như các phù thủy và ma cà rồng.

Bằng cách nào đó, bà đã đoán được ý nghĩa bao hàm trong đó.

Tôi đặt Sách Sự Sống trên bàn trong khi Đại Hội Đồng tụ tập xung quanh tôi. Các móc mở ra ngay lập tức với cái chạm của tôi. Những tiếng thì thầm và những tiếng thở dài điền đầy không gian, tiếp theo sau là các dấu vết kỳ quái còn lại từ linh hồn của những sinh vật đã bị ràng buộc với các trang sách.

"Pháp thuật là không được phép trên Isola della Stella", Domenico phản đối, một chút hoảng loạn trong giọng nói của hắn. "Nói với cô ta, Gerbert!"

"Nếu tôi đang thực hiện phép thuật, Domenico, ông sẽ biết.", tôi vặn lại.

Domenico tái nhợt khi những hồn ma trở nên rõ ràng hơn, mang hình thể con người bị kéo dãn với hõm mắt trống rỗng, tối đen.

Tôi lật cuốn sách mở. Mọi người cúi về phía trước để có một cái nhìn gần hơn.

"Không có gì ở đó hết," Gerbert nói, khuôn mặt lão vặn xoắn với cơn giận dữ. "Cuốn sách này trống không. Cô đã làm gì cuốn sách gốc của chúng tôi rồi?"

"Cuốn sách này có mùi. . .kỳ quái ", Domenico nói, trao cho không khí một cái đánh hơi nghi ngờ. "Y như động vật chết."

"Không, nó có mùi của những sinh vật chết." Tôi xáo các trang để mùi hương toả đầy trong không khí. "Daemons. Ma cà rồng. Phù thủy. Tất cả đều có ở đó. "

"Ý cô là . . . " Tatiana trông khiếp sợ.

"Đúng vậy." Tôi gật đầu. "Đó là giấy da được làm từ da các sinh vật. Các mảnh da cũng được khâu lại với nhau bằng tóc của các sinh vật."

"Nhưng các văn bản đâu rồi?" Gerbert hỏi, cao giọng. "Sách Sự Sống được cho là nắm giữ chìa khóa của nhiều bí ẩn. Đó là văn bản thiêng liêng của chúng tôi về lịch sử ma cà rồng. "

"Văn bản thiêng liêng của ông đây." Tôi đẩy tay áo của tôi lên. Chữ và các biểu tượng hoà quyện và chạy ngay dưới da của tôi, đến với các bề mặt giống như bong bóng nước trên hồ, chỉ để hòa tan. Tôi không có ý tưởng về những gì mắt của tôi đã làm, nhưng tôi ngờ rằng chúng cũng đầy các ký tự. Satu lùi xa khỏi tôi.

"Cô đã bỏ bùa nó," Gerbert gầm gừ.

"Sách Sự Sống đã bị bỏ bùa từ rất lâu rồi," tôi nói. "Tất cả những gì tôi đã làm là mở nó ra."

"Và nó đã chọn cô." Osamu giơ một ngón tay chạm vào những chữ cái trên cánh tay tôi. Một vài trong số chúng tụ tập xung quanh vị trí mà làn da của ông ta chạm vào tay tôi trước khi chúng nhảy nhót ra xa trở lại.

"Tại sao cuốn sách chọn Diana Bishop?" Domenico gầm gừ.

"Bởi vì tôi là một thợ dệt - một người sáng tạo thần chú – và chỉ có vài người trong chúng tôi còn sót lại." Tôi tìm kiếm Satu một lần nữa. Đôi môi của bà ta mím chặt với nhau, và đôi mắt cầu xin tôi giữ im lặng. "Chúng tôi có quá nhiều quyền lực sáng tạo, và các phù thủy đồng đội của chúng tôi đã giết chúng tôi."

"Quyền năng làm cho bạn có khả năng tạo ra phép thuật mới cũng đã mang lại cho bạn khả năng tạo ra những mầm sống mới", Agatha cho biết, sự phấn khích của bà là hiển nhiên.

"Đó là một phước lành đặc biệt mà nữ thần ban cho thợ dệt nữ," tôi trả lời. "Không phải tất cả các thợ dệt đều là phụ nữ, tất nhiên. Cha tôi cũng là một thợ dệt."

"Điều đó là không thể", Domenico gầm gừ. "Điều này cho thấy có thêm sự bội tín của của phù thủy. Tôi chưa bao giờ nghe nói về một thợ dệt, và các tai họa cổ xưa của chứng cuồng máu đã biến đổi thành một dạng nguy hiểm hơn. Về những đứa trẻ được sinh ra từ phù thủy và ma cà rồng, chúng ta không thể cho phép một ác quỷ như thế phát triển. Chúng sẽ là những con quái vật vượt xa khỏi lý trí hoặc sự kiểm soát. "

"Tôi phải không đồng ý với bạn về điểm đó, Domenico," Janet nói.

"Trên cơ sở gì?", Hắn nói với một chút thiếu kiên nhẫn.

"Trên cơ sở rằng tôi là một sinh vật như vậy và tôi không phải ác quỷ cũng không phải quái vật."

Lần đầu tiên kể từ khi tôi đến, sự quan tâm của căn phòng đã chuyển hướng sang một nơi khác.

"Bà tôi là con của một thợ dệt và một ma cà rồng." Đôi mắt màu xám của Janet bám chặt vào tôi. "Mọi người ở vùng Cao Nguyên gọi ông ta Nickie-Ben."

"Benjamin," tôi thở.

"Aye." Janet gật đầu. "Các phù thủy trẻ được dặn là cần phải cẩn thận vào những đêm không trăng, kẻo Nickie-Ben đến bắt họ. Ngoại tổ của tôi, Isobel Gowdie, đã không nghe lời. Họ đã có một mối tình điên. Các truyền thuyết nói rằng ông ta đã cắn vào vai bà. Khi Nickie-Ben ra đi, ông ấy đã để lại một thứ phía sau mà không biết : một đứa con gái. Tôi được đặt theo tên của bà ấy."

Tôi nhìn xuống cánh tay của tôi. Trong một kiểu chữ thảo kỳ bí, những mẫu tự dâng lên và sắp xếp thành một cái tên: JANET GOWDIE, CON GÁI CỦA ISOBEL GOWDIE VÀ BENJAMIN FOX. Bà ngoại của Janet đã từng là một trong những Bright Born.

"Bà ngoại của bà đã thụ thai khi nào?" Một tường thuật về cuộc sống của một Bright Born có thể cho tôi biết điều gì đó về tương lai của con cái mình.

"Trong năm 1662," Janet nói. "Granny Janet qua đời vào năm 1912, phước lành cho bà, ở tuổi hai trăm năm mươi. Bà đã giữ được vẻ đẹp của bà cho đến khi kết thúc, nhưng, không giống như tôi, Granny Janet là ma cà rồng nhiều hơn phù thủy. Bà tự hào lấy cảm hứng từ những huyền thoại về baobhan sith*, đã thu hút rất nhiều người đàn ông lên giường chỉ để làm cho mỗi người trong số họ chết và đổ nát sau khi Nickie-Ben bỏ rơi bà. Thật đáng sợ để giữ cho tâm trạng Granny Janet bình tĩnh khi bà chịu đau khổ."


* The baobhan sith : Còn gọi là người phụ nữ Trắng của Cao Nguyên, nữ thần hút máu trong thần thoại Scotland, một phụ nữ có vẻ đẹp thoát tục thường mặc đồ trắng hoặc xanh lá cây, quyến rũ đàn ông trong những nơi thôn dã rồi hút máu của họ - Ct của Sẻ.

"Nhưng điều đó sẽ làm cho bà . . . " Mắt tôi đã tròn vo.

"Tôi sẽ có một trăm bảy mươi năm tiếp theo," Janet nói. Bà lẩm bẩm một vài từ và mái tóc trắng đã lộ ra là một màu đen sẫm. Một câu thần chú thì thầm làm tan những nếp nhăn trên khuôn mặt của bà, để lại làn da màu trắng ngọc trai rạng rỡ.

Janet Gowdie nhìn không quá ba mươi. Cuộc sống của các con tôi bắt đầu hình thành trong trí tưởng tượng của tôi.

"Và mẹ của bà?" Tôi hỏi.

"Mam của tôi sống trong hai trăm năm tròn. Với mỗi thế hệ trôi qua, cuộc sống của chúng tôi ngắn hơn."

"Làm thế nào bạn che giấu điều này khỏi những con người được?" Osamu hỏi.

"Cùng một cách ma cà rồng làm, tôi nghĩ thế. Một chút may mắn. Một chút giúp đỡ từ phù thủy đồng hữu của chúng tôi. Một số con người sẵn sàng quay lưng lại với sự thật.” Janet trả lời.

"Điều này là hoàn toàn vớ vẩn," Sidonie phản đối kịch liệt. "Bà là một phù thủy đáng kính trọng, Janet. Khả năng đúc phép thuật của bà là nổi tiếng. Và bà đến từ một dòng dõi phù thủy lỗi lạc. Tại sao bà muốn làm vấy bẩn danh tiếng của gia đình với câu chuyện này thì tôi không hiểu nổi."

"Ra là thế," tôi nói, giọng tôi mềm mại.

"Có gì sao?" Sidonie nghe như một bà giáo già nóng tính.

"Sự ghê tởm. Nỗi sợ hãi. Sự không thích bất cứ ai không phù hợp với những kỳ vọng chất phác của bà về thế giới và cách mà nó hoạt động. "

"Nghe tôi nói, Diana Bishop…"

Nhưng tôi không muốn nghe Sidonie hoặc bất cứ ai sử dụng các giao ước như một lá chắn để che giấu bóng tối bên trong của chính họ.

"Không. Bà mới phải nghe tôi nói.” tôi nói. "Cha mẹ tôi đều là phù thủy. Tôi là con gái huyết thệ của một ma cà rồng. Chồng tôi, và là cha của các con tôi, là một ma cà rồng. Janet cũng vậy, là hậu duệ của một phù thủy và ma cà rồng. Khi nào bà ngừng việc giả vờ về khái niệm phù thủy thuần huyết trong thế giới? "

Sidonie cứng người. "Có một khái niệm như vậy. Đó là cách mà sức mạnh của chúng ta đã được duy trì."

"Không. Đó là cách mà sức mạnh của chúng ta đã suy tàn.” Tôi vặn lại. "Nếu chúng ta tiếp tục tuân thủ các giao ước, trong một vài thế hệ nữa, chúng ta sẽ không có bất cứ quyền lực nào còn lại. Toàn bộ mục đích của thỏa thuận đó là để giữ cho các loài khỏi pha trộn và tái tạo. "

"Cực kỳ nhảm nhí!" Sidonie la lên. "Mục đích của giao ước, đầu tiên và quan trọng hơn tất cả, là để giữ cho chúng ta an toàn."

"Không. Giao ước đã được soạn thảo để ngăn chặn sự ra đời của những đứa trẻ giống như Janet: mạnh mẽ, sông lâu, không phải phù thủy, không phải ma cà rồng, cũng không phải daemon, nhưng là một cái gì đó ở giữa.” tôi nói. "Đó là những gì tất cả các sinh vật đều lo ngại. Đó là những gì Benjamin muốn kiểm soát. Chúng ta không thể cho phép hắn. "

"Ở giữa?" Janet uốn cong lông mày của cô. Chúng đã, bây giờ tôi đã nhìn thấy chúng rõ ràng, đen như đêm. "Vậy đó là câu trả lời sao?"

"Câu trả lời cho những gì?" Domenico yêu cầu.

Nhưng tôi chưa sẵn sàng để chia sẻ bí mật từ Sách Sự Sống. Không cho đến khi Miriam và Chris tìm thấy những bằng chứng khoa học để sao lưu những gì mà cuốn bản thảo đã tiết lộ. Một lần nữa tôi được cứu khỏi việc trả lời bởi tiếng chuông của Celestina.

"Đã gần nửa đêm. Chúng ta phải tạm hoãn – vào lúc này.” Agatha Wilson nói, đôi mắt trong veo. "Tôi nêu câu hỏi. Đại Hội Đồng có sẽ hỗ trợ nhà De Clermonts trong những nỗ lực của họ để giải cứu thế giới thoát khỏi Benjamin Fox không?"

Mọi người đều trở về chỗ ngồi của mình và chúng tôi đi quanh bàn tuần tự thả lá phiếu của chúng tôi.

Lần này cuộc bỏ phiếu đã khuyến khích nhiều hơn: bốn ủng hộ và năm phản đối. Tôi đã đạt được tiến bộ trong các cuộc bỏ phiếu thứ hai, có được sự ủng hộ của Agatha, Osamu, và Janet, nhưng không đủ để đảm bảo các kết quả vào lần thứ ba, và là lần cuối cùng, bỏ phiếu vào ngày mai. Đặc biệt là không phải khi kẻ thù cũ của tôi, Gerbert, Domenico, và Satu, nằm trong số các đối thủ.

"Cuộc họp sẽ tiếp tục vào chiều mai lúc năm giờ." Nhận thức về mỗi phút mà Matthew trải qua trong nhà giam của Benjamin, tôi đã tranh luận một lần nữa về thời gian cuộc họp sớm hơn. Và một lần nữa, yêu cầu của tôi đã bị từ chối.

Một cách mệt mỏi tôi gom lại tập tài liệu - mà tôi sẽ không bao giờ mở - và Sách Sự Sống. Bảy giờ vừa qua đã thật kinh khủng. Tôi không thể ngừng suy nghĩ về Matthew và những gì anh đã kiên trì chịu đựng trong khi Đại Hội Đồng bao vây và rào kín. Và tôi cũng lo lắng về những đứa bé đã không có cả cha lẫn mẹ bên cạnh. Tôi chờ cho căn phòng vắng dần. Janet Gowdie và Gerbert là người cuối cùng rời đi.

"Gerbert?" Tôi gọi.

Lão dừng lại trên đường ra cửa, quay lưng lại với tôi.

"Tôi sẽ không quên những gì đã xảy ra vào tháng Năm," tôi nói, sức mạnh cháy sáng trong tay tôi.

"Tôi cũng không." đầu của Gerbert quay ngoắt lại. "Peter nói cô và Matthew đang  che giấu điều gì đó. Tôi nên nghe ông ta."

"Tại sao? Benjamin đã không mách với ông về những gì các phù thủy phát hiện ra à?", Tôi hỏi.

Nhưng Gerbert đã không sống quá lâu để dễ dàng bị bắt thóp như thế. Môi lão uốn cong.

"Cho đến buổi tối tiếp theo," lão nói, cho Janet và tôi một cái cúi chào nhỏ, hình thức.

"Chúng ta nên gọi lão là Nickie-Bertie," Janet nhận xét. "Lão và Benjamin sẽ tạo nên một cặp ma quỷ đích thực."

Tôi mỉm cười.

"Cô có rảnh vào ngày mai để ăn trưa không?" Janet Gowdie hỏi khi chúng tôi bước ra khỏi phòng họp và vào tu viện, tiếng Scots giàu nhạc điệu của cô nhắc nhở tôi về Gallowglass.

"Tôi?" Thậm chí sau tất cả những gì đã xảy ra đêm nay, tôi đã rất ngạc nhiên cô ấy sẽ để bị nhìn thấy với một de Clermont.

"Không ai trong chúng ta vừa vặn trong những cái hộp bé xíu của Đại Hội Đồng, Diana," Janet nói, làn da mịn màng của cô kéo sâu lúm đồng tiền với sự thích thú.

Gallowglass và Fernando đang đợi tôi dưới đường có mái vòm của tu viện. Gallowglass cau mày nhìn thấy tôi trong sự bầu bạn của một phù thủy.

"Được rồi, Thím?" Anh hỏi, khó chịu. "Chúng ta nên đi. Muộn rồi. "

"Tôi chỉ muốn có vài trao đổi nhanh với Janet trước khi chúng ta rời đi." Tôi quan sát khuôn mặt của Janet, tìm kiếm một dấu hiệu cho thấy cô ấy có thể đang cố gắng giành được tình bạn của tôi vì một vài mục đích bất chính nào đó, nhưng tất cả những gì tôi thấy là sự quan tâm. "Tại sao bạn giúp đỡ tôi?" Tôi hỏi thẳng thừng.

"Tôi đã hứa với Philippe là tôi sẽ," Janet nói. Cô thả túi đựng đồ đan xuống chân và vén ống tay áo của cô lên. "Bạn không phải là người duy nhất có làn da biết kể một câu chuyện, Diana Bishop."

Được xăm trên cánh tay của cô là một hàng số. Gallowglass chửi thề. Tôi thở hổn hển. "Bạn đã ở Auschwitz cùng với Philippe?" Trái tim tôi đã nảy lên miệng tôi.

"Không. Tôi đã ở Ravensbruck.” cô nói. "Tôi đang làm việc tại Pháp cho SOE - Bộ phận hoạt động đặc biệt - khi tôi bị bắt. Philippe cũng đang cố gắng để giải phóng trại. Ông ấy đã xoay sở để đưa được một ít trong số chúng tôi ra, trước khi Đức quốc xã bắt được ông ấy.”.

"Bạn có biết nơi Philippe đã bị giam giữ sau Auschwitz không?" Tôi hỏi, giọng tôi khẩn cấp.

"Không, mặc dù chúng tôi đã tìm kiếm ông ấy. Là Nickie-Ben đã bắt giữ ông ấy sao?" Đôi mắt của Janet sẫm lại thương cảm.

"Phải," tôi trả lời. "Chúng tôi nghĩ rằng ông ấy đang ở đâu đó gần Chelm."

"Vậy, Benjamin cũng đã có những phù thủy làm việc cho anh ta. Tôi nhớ đã tự hỏi vào lúc đó, lý do tại sao tất cả mọi thứ trong vòng năm mươi dặm của Chelm bị biến mất trong sương mù dày đặc. Chúng tôi không thể tìm thấy đường đi xuyên qua nó, bất kể chúng tôi đã cố gắng thế nào." Đôi mắt của Janet rưng rưng. "Tôi xin lỗi, chúng tôi đã không cứu được Philippe. Chúng tôi sẽ làm tốt hơn lần này. Đây là một vấn đề danh dự của gia đình Bishop-Clairmont. Và tôi là dòng dõi của Matthew de Clermont, sau tất cả."

"Tatiana sẽ dễ gây ảnh hưởng nhất ," tôi nói.

"Không phải Tatiana," Janet nói với một cái lắc đầu. "Cô ta đang say mê  Domenico. Áo len của cô ta không chỉ để tôn hình dáng của cô ta lên. Nó cũng giúp giấu đi vết cắn của Domenico. Chúng ta phải thuyết phục Satu thay vì thế."

"Satu Järvinen sẽ không bao giờ giúp tôi," tôi nói, nghĩ đến thời gian chúng tôi đã trải qua cùng nhau tại La Pierre.

"Ồ, tôi nghĩ cô ấy sẽ", Janet nói. "Một khi chúng ta giải thích rằng chúng ta sẽ giao cô ta cho Benjamin để đổi lấy Matthew nếu cô ấy không về phe chúng ta. Satu là một thợ dệt như bạn, sau tất cả. Có lẽ thợ dệt Phần Lan màu mỡ nhiều hơn so với Chelm chăng."






Satu đang tạm trú tại một cơ ngơi nhỏ trên một campo (quảng trường – tiếng Ý) yên tĩnh, ở phía đối diện với Ca 'Chiaromonte qua Grand Canal. Nó trông hoàn toàn bình thường phía bên ngoài, với các hộp hoa sơn màu sáng và những miếng dán trên cửa sổ cho thấy giá của nó tương đối thấp so với các cơ ngơi khác trong khu vực (bốn ngôi sao) và các thẻ tín dụng được chấp nhận (tất cả chúng).

Bên trong, tuy nhiên, lớp ván mặt tiêu chuẩn cho thấy độ mỏng.

Người chủ, Laura Malipiero, ngồi sau một chiếc bàn ở sảnh phía trước, quấn trong lớp nhung tím và đen, đang xáo trộn một cỗ bài Tarot. Tóc cô ta hoang dã và xoăn, với những dải trắng lẫn đen. Một vòng hoa bằng những con dơi giấy màu đen được quàng trên các hộp thư, và hương thơm của cây xô thơm và mùi nhang máu rồng lởn vởn trên không. "Chúng tôi đầy rồi," cô ta nói, không nhìn lên từ các lá bài của mình. Một điếu thuốc lá được siết chặt ở góc miệng. Nó màu tím và màu đen, giống như trang phục của cô ta. Lúc đầu, tôi không nghĩ rằng nó đã được đốt. Signorina Malipiero đang ngồi dưới một bảng hiệu được viết VIETATO FUMARE (Không hút thuốc – Tiếng Ý), sau tất cả. Nhưng sau đó người phù thủy rít một hơi sâu.

Thật sự không có khói, mặc dù đầu điếu thuốc tỏa sáng.

"Họ nói rằng cô ấy là phù thủy giàu nhất ở Venice. Cô ấy đã tạo nên tài sản của mình bằng việc bán thuốc lá ếm bùa."

Ánh mắt Janet nhìn cô ta với vẻ chê trách. Cô đã mang thần chú ngụy trang của mình một lần nữa và để các người quan sát ngẫu nhiên nhìn thấy một bà cụ chín mươi tuổi yếu ớt hơn là một cô gái mảnh mai ba mươi tuổi.

"Tôi xin lỗi, các chị em, nhưng Regata delle Befane ở đây tuần này, và không còn phòng nào còn trống trong phần này của Venice." Sự chú ý của Signorina Malipiero vẫn ở trên những lá bài.

Tôi đã nhìn thấy thông báo trên khắp thị trấn công bố cuộc đua thuyền Epiphany hàng năm để xem ai có thể đi từ San Toma đến Rialto nhanh nhất. Có hai vòng đua, tất nhiên : cuộc đua chính thức vào buổi sáng và một thú vị hơn và nguy hiểm hơn vào lúc nửa đêm liên quan đến không chỉ sức mạnh thể chất mà cả pháp thuật nữa.

"Chúng tôi không quan tâm đến một căn phòng, Signorina Malapiero. Tôi là Janet Gowdie, và đây là Diana Bishop. Chúng tôi ở đây để gặp Satu Järvinen về công việc của Đại Hội Đồng – đó là nếu cô ấy không tập luyện cho cuộc đua thuyền đáy bằng."

Người phù thủy Venetian nhìn lên sửng sốt, đôi mắt đen của cô mở hết cỡ và điếu thuốc lơ lửng.

"Phòng 17, đúng không? Không cần phải gây rắc rối cho bản thân đâu. Chúng tôi có thể tự mình xuất hiện." Janet cười rạng rỡ với người phù thủy bị choáng và đẩy nhanh tôi về hướng cầu thang.

"Bạn, Janet Gowdie, là một cái xe ủi," Tôi nói không kịp thở khi cô lôi tôi xuống hành lang. "Chưa kể đến một nhà ngoại cảm." Thật là một tài năng phép thuật hữu ích như thế.

"Thật là một điều đáng yêu để nói, Diana." Janet gõ cửa. "Cameriera!" (Phục vụ đây! – Tiếng Ý)

Không có câu trả lời. Và sau cuộc họp chạy đua đường trường của Đại Hội Đồng ngày hôm qua, tôi đã quá mệt mỏi vì chờ đợi.

Tôi quấn ngón tay tôi quanh nắm cửa và lẩm bẩm một câu thần chú mở cửa. Cánh cửa bật mở. Satu Järvinen đã chờ đợi chúng tôi bên trong, cả hai tay giơ lên, sẵn sàng để thực hiện pháp thuật. Tôi bẫy các sợi tơ bao quanh bà ta và kéo chúng chặt lại, trói buộc hai cánh tay vào bên hông. Satu thở hổn hển.

"Bà biết điều gì về việc là một thợ dệt?" Tôi hỏi.

"Không như nhiều như cô," Satu trả lời.

"Đây là lý do bà đối xử với tôi rất tệ tại La Pierre sao?" Tôi hỏi.

Vẻ mặt của Satu rắn lại. Hành vi bà ta đã thực hiện vì lợi ích tự sinh tồn. Bà ta không hề cảm thấy hối hận. "Tôi sẽ không để cho cô tiết lộ tôi. Họ sẽ giết tất cả chúng ta nếu họ phát hiện ra những gì người thợ dệt có thể làm.” Satu nói.

"Dù sao thì họ cũng sẽ giết tôi vì đã yêu Matthew. Tôi có gì gì để mất? "

"Các con của cô" Satu phun ra.

Điều đó, hoá ra, đã đi quá xa.

"Ta ràng buộc ngươi, Satu Järvinen, giao ngươi trong tay của nữ thần mà không có quyền năng hay phép phù thuỷ nào, vì ngươi đã chứng tỏ mình không thích hợp để sở hữu chúng." Với ngón tay trỏ của bàn tay trái, tôi kéo thêm một inch và thắt nút chúng chặt chẽ. Ngón tay của tôi bùng lên tím sẫm trong màu sắc của công lý.

Quyền năng của Satu rời khỏi bà với một tiếng rít, hút không khí ra khỏi phòng.

"Cô không thể ếm bùa tôi!" Bà kêu lên. "Nó bị cấm!"

"Báo cáo tôi cho Đại Hội Đồng đi," tôi nói. "Nhưng trước khi làm, hãy biết điều này: Không ai có thể phá vỡ các nút thắt đã trói buộc bà – ngoại trừ tôi. Và bà sẽ hữu dụng với Đại Hội Đồng trong tình trạng này sao? Nếu bà muốn giữ chỗ ngồi của mình, bà sẽ phải giữ im lặng và hy vọng rằng Sidonie von Borcke không chú ý."

"Cô sẽ phải trả giá cho điều này, Diana Bishop!" Satu hứa.

"Tôi đã trả rồi," tôi nói. "Hay bà quên những gì bà đã làm cho tôi dưới danh nghĩa của tình đoàn kết đồng đạo?"

Tôi tiến về phía bà ta từ từ. “Bùa trói buộc này không là gì so với những gì Benjamin sẽ làm cho bà nếu hắn phát hiện ra bà là một thợ dệt. Bà sẽ không có cách nào bảo vệ chính mình và sẽ hoàn toàn ở dưới lòng thương xót của hắn. Tôi đã nhìn thấy những gì Benjamin đã làm với các các phù thủy mà hắn đã cố gắng để thụ thai. Không, ngay cả bà cũng không đáng phải nhận điều đó."

Mắt Satu của đu đưa với nỗi sợ hãi.

"Bình chọn cho kiến nghị của nhà de Clermonts chiều nay." Tôi đã giải phóng cho đôi cánh tay của Satu, nhưng không thả thần chú ràng buộc đã hạn chế quyền lực của bà ta.

Satu đã cố gắng và thất bại trong việc sử dụng phép thuật chống lại tôi.

"Năng lực của bà đã không còn. Tôi không nói dối. Đồng hữu à." Tôi quay người và hiên ngang đi khỏi. Tại cửa tôi dừng bước và quay lại. "Và đừng bao giờ đe dọa các con tôi một lần nữa. Nếu bà làm thế, bà sẽ ước đã cầu xin tôi ném bà xuống một cái hố và quên bà. "







Gerbert cố trì hoãn cuộc biểu quyết cuối cùng dựa trên các căn cứ thủ tục, lập luận rằng bản hiến pháp hiện hành của hội đồng quản trị không đáp ứng các tiêu chí đề ra trong các tài liệu cơ bản có niên đại từ thời kỳ Crusader*. Những quy định này chỉ rõ về sự hiện diện của ba ma cà rồng, ba phù thủy, và ba daemon.

* Crusader : Thập tự Chinh. Một loạt các cuộc chiến tranh Tôn giáo do nhà thờ Latin khởi xướng trong thời Trung Cổ. Năm 1095, Giáo Hoàng Urban II đã phát động cuộc Thập Tự Chinh Thứ Nhất nhằm khôi phục Đất Thánh từ Hồi Giáo kéo dài trong hai thế kỷ. Sau đó có 6 cuộc Thập Tự Chinh nữa nhỏ hơn và vì những lý do khác như đàn áp dị giáo và ngoại giáo, các thế lực đối địch Giáo Hội Roma, các lợi thế chính trị và lãnh thổ. Thời kỳ Thập Tự Chinh chấm dứt sau thất thủ Constantinople cho Ottoman 1453, và Spanish trên lãnh thổ Moor 1492. – Ct của Sẻ.

Janet ngăn tôi bóp chết sinh vật này bằng cách nhanh chóng giải thích rằng, do bởi cô ấy và tôi, cả hai đều có một phần là ma cà rồng và một phần là phù thủy, Đại Hội Đồng đã cân bằng nhau. Trong khi cô ấy tranh cãi về tỷ lệ phần trăm, tôi xem xét thứ gọi là văn bản nền tảng của Gerbert và phát hiện ra những từ như "bất khả xâm phạm" được dùng một cách kiên quyết trong giọng điệu thế kỷ XVIII đó. Nó cũng được trình bày với một danh sách các lỗi ngôn ngữ về niên đại trong tài liệu được cho là thời kỳ Crusader này, Gerbert cau có nhìn Domenico và nói đây rõ ràng là bản sao chép lại sau khi bản gốc đã bị mất.

Không ai tin ông ta.

Janet và tôi đã giành được phiếu bầu: 6-3. Satu biểu quyết như chúng tôi đã nói bà ấy làm, thái độ của bà khuất phục và bị đánh bại. Ngay cả Tatiana cũng gia nhập hàng ngũ của chúng tôi nhờ Osamu, người đã dành cả buổi sáng để lập bản đồ các vị trí chính xác của không chỉ Chelm mà là mỗi thành phố của Nga bắt đầu bằng âm Ch chỉ để chứng minh rằng những phù thủy của thành phố thuộc Ba Lan không liên quan đến tai hoạ lột da của bà ngoại cô ấy. Khi cả hai bước vào phòng hội đồng tay trong tay, tôi đoán cô ta chắc chắn đã chuyển không chỉ phe mà còn cả bạn trai nữa.

Sau khi cuộc bỏ phiếu đã được kiểm đếm và ghi nhận, chúng tôi không nán lại để ăn mừng. Thay vào đó Gallowglass, Janet, Fernando, và tôi đã đi khỏi trong con tàu của nhà de Clermont, băng qua vùng eo biển đến sân bay.

Theo kế hoạch, tôi đã gửi một văn bản ba chữ cho Hamish về kết quả của cuộc bỏ phiếu: QGA. Nó thể hiện cho ‘Queen’s Gambit Accepted’ (nước thí quân Nữ Hoàng đã chấp nhận), một mật mã ám chỉ rằng  Đại Hội Đồng đã được thuyết phục để hỗ trợ trong việc giải cứu Matthew. Chúng tôi không biết liệu có ai đang theo dõi thông tin liên lạc của chúng tôi hay không, nhưng chúng tôi quyết định phải thận trọng.

Phản ứng của ông đến ngay lập tức.

Làm tốt lắm. Đang chờ các bạn đến.

Tôi đã kiểm tra với Marcus, cậu báo cáo rằng cặp song sinh luôn luôn đói và hoàn toàn độc chiếm sự chú ý của Phoebe. Đối với Jack, Marcus cho biết cậu bé cũng tốt như có thể mong đợi.

Sau trao đổi của tôi với Marcus, tôi đã gửi một tin nhắn cho Ysabeau.

Lo lắng về cặp Bishops. (quân cờ giám mục hoặc quân tượng trong cờ vua, mỗi phe có 1 cặp – ct của sẻ)

Đó là một ám hiệu cờ vua khác. Chúng tôi đã đặt tên cho Gerbert, cựu giám mục của Rome, và bạn đồng mưu của lão, Domenico, là "cặp Bishops" bởi vì họ luôn luôn có vẻ như đang làm việc cùng nhau. Sau thất bại mới nhất vừa qua, họ chắc chắn sẽ trả đũa. Gerbert hẳn đã cảnh báo Knox rằng tôi đã giành được số phiếu bầu và chúng tôi đang trên đường đến.

Ysabeau mất nhiều thời gian để trả lời hơn Marcus đã làm.

Cặp Bishops không thể chiếu tướng vua trừ khi hoàng hậu và rook của cô ấy cho phép. (Rook: quân Xe hoặc Thành hoặc Tháp trong cờ vua)

Có một lúc ngập ngừng, sau đó một tin nhắn khác.

Và ta sẽ chết trước.



Không có nhận xét nào: