Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2017

Mật mã 3 - Chương 25

Chương 25






"Tôi đã tìm thấy nó." Phoebe đặt một bản in e-mail in trước mặt tôi, trên bề mặt bằng da chạm khắc của cái bàn viết kiểu Georgian. Thực tế là cô ấy đã không gõ một cách lịch sự trên cửa phòng khách trước nói với tôi rằng thứ gì đó thú vị đã xảy ra.

"Đã?" Tôi nhìn cô kinh ngạc.

"Tôi đã nói với người giám sát cũ của tôi rằng tôi đang tìm kiếm một món đồ cho nhà de Clermonts - một hình ảnh về một cái cây được vẽ bởi Athanasius Kircher." Phoebe liếc nhìn xung quanh căn phòng, đôi mắt sành sỏi của cô bị bắt bởi chiếc rương kiểu Trung Hoa màu đen mạ vàng, Những thân tre giả được chạm khắc trên một chiếc ghế, những tấm đệm lụa đầy màu sắc nằm rải rác xung quanh chiếc ghế dài bên cửa sổ. Cô nhìn chăm chú vào bức tường, lẩm bẩm tên Jean Pillement và những từ như "không thể" và "vô giá" và "bảo tàng."

"Nhưng các hình minh họa trong Sách Sự Sống không được vẽ bởi Kircher." Tôi cau mày và nhặt tờ thư điện tử. "Và nó không phải là một hình ảnh. Đó là một trang xé ra từ một bản thảo."

"Thuộc tính và xuất xứ là rất quan trọng để bán hàng tốt," Phoebe giải thích. "Sự cám dỗ để liên kết các hình ảnh với Kircher sẽ không thể cưỡng lại được. Và nếu các cạnh của tấm giấy da đã được làm sạch và các văn bản đã không thể nhìn thấy, nó sẽ dẫn đến một mức giá cao hơn một bản vẽ độc lập hoặc tranh sơn dầu."

Tôi lướt qua tin nhắn. Nó bắt đầu với một ám chỉ cáu kỉnh về sự từ chức của Phoebe và trạng thái hôn nhân của cô trong tương lai. Nhưng những dòng tiếp theo bắt được sự chú ý của tôi:



Tôi tìm thấy hồ sơ về việc bán và mua lại "một câu chuyện ngụ ngôn của Cây Sự Sống được cho là đã từng được trưng bày trong bảo tàng của Athanasius Kircher, SJ, ở Rome." Có thể đây là hình ảnh nhà De Clermonts đang tìm kiếm chăng?



"Ai đã mua nó?" Tôi thì thầm, hầu như không dám thở mạnh.

"Sylvia sẽ không nói với tôi đâu," Phoebe nói, chỉ vào những dòng cuối cùng của e-mail. "Việc mua bán là gần đây, và các chi tiết đều được giữ kín. Cô ấy tiết lộ giá mua: 1650 bảng Anh "

"Đó là tất cả ư?" Tôi kêu lên. Hầu hết các sách Phoebe đã mua cho tôi chi phí lớn hơn rất nhiều.

"Nguồn gốc Kircher khả dĩ đã không đủ để thuyết phục những người mua tiềm năng chi tiêu nhiều hơn," cô ấy nói.

"Thật sự không có cách nào để phát hiện ra danh tính của người mua sao?" Tôi bắt đầu hình dung làm thế nào tôi có thể sử dụng phép thuật để tìm hiểu thêm.

"Sotheby không thể cho phép nói bí mật của khách hàng." Phoebe lắc đầu. "Hãy tưởng tượng Ysabeau sẽ phản ứng như thế nào nếu sự riêng tư của bà bị vi phạm."

"Cháu đã cho gọi ta à, Phoebe?" Mẹ chồng của tôi đang đứng ở cửa ra vào hình vòm trước khi hạt giống kế hoạch của tôi có thể nảy ra được chồi đầu tiên của nó.

"Phoebe đã khám phá ra một vụ mua bán gần đây tại Sotheby mô tả một hình ảnh rất giống như con đang tìm," Tôi giải thích cho Ysabeau. "Họ sẽ không nói cho chúng ta về người đã mua nó."

"Tôi biết các hồ sơ bán hàng được lưu giữ ở đâu," Phoebe nói. "Khi tôi đi đến Sotheby để giao nộp chìa khóa của tôi, tôi có thể xem qua một chút."

"Không, Phoebe. Làm thế quá mạo hiểm.Nếu bạn có thể cho tôi biết chính xác nơi chúng đang ở, tôi có thể tìm ra một cách để có được quyền truy cập vào chúng." Một số kết hợp của phép thuật của tôi và băng trộm Hubbard và người con trai bị thất lạc có thể xoay sở được. Nhưng mẹ chồng tôi đã có những ý tưởng riêng của mình.

"Ysabeau de Clermont gọi cho Quý ngài Sutton." Giọng nói rõ ràng vang vọng khỏi trần nhà cao của căn phòng.

Phoebe có vẻ sốc. "Bà không thể chỉ cần gọi các giám đốc của Sotheby và hy vọng anh ta sẽ làm hài lòng bà được."

Rõ ràng Ysabeau có thể và đã làm.

"Charles. Đã quá lâu rồi nhỉ." Ysabeau vắt người qua một chiếc ghế và để cho những viên ngọc trai rơi qua những ngón tay của bà. "Ông đã rất bận rộn, tôi phải trả lời với Matthew về vài tin tức. Và sự tái cấp vốn mà cậu ấy đã giúp ông sắp xếp - nó có đạt được những gì ông đã hy vọng không? "

Ysabeau tạo ra những âm thanh mềm mại, khuyến khích đầy sự quan tâm và những biểu hiện cho sự đánh giá cao trí thông minh của ông ta. Nếu tôi phải mô tả hành vi của bà, tôi sẽ bị cám dỗ để gọi nó là nũng nịu -  kiểu cô mèo từng là một em bé hổ Bengal.

"Ồ, tôi rất vui mừng, Charles. Matthew cảm thấy chắc chắn nó sẽ hữu dụng." Ysabeau lướt một ngón tay thanh nhã trên môi bà. "Tôi đã tự hỏi liệu ông có thể giúp đỡ với một tình huống nho nhỏ. Marcus sắp kết hôn, ông thấy đấy – với một trong những nhân viên của ông. Họ gặp nhau khi Marcus nhận những bức tiểu hoạ mà ông đã tử tế mua giúp cho tôi trong tháng Giêng."

Lời đáp chính xác của ngài Sutton không thể nghe được, nhưng tiếng ậm ừ ấm áp của sự mãn nguyện trong giọng nói của ông là không thể nhầm lẫn.

"Nghệ thuật của mai mối." Cười Ysabeau trong như pha lê. “Ông thật dí dỏm làm sao, Charles. Marcus đã đặt hết trái tim mình vào việc mua cho Phoebe một món quà đặc biệt, một thứ cậu ấy nhớ đã nhìn thấy từ lâu - một hình ảnh của một cây gia đình."

Mắt tôi mở rộng "Xuỵt!" Tôi vẫy tay. "Nó không phải là một cây gia đình. Nó là… "

Bàn tay của Ysabeau của làm một cử chỉ tuỳ tiện khi lời thì thầm ở đầu dây bên kia chuyển thành háo hức.

"Tôi tin rằng Sylvia có thể lần theo các món đã bán gần đây. Nhưng tất nhiên là cô ấy quá kín đáo để cho tôi biết ai đã mua nó." Ysabeau gật đầu qua các phản ứng có lỗi trong một vài khoảnh khắc. Sau đó, con mèo con tiếp tục vồ mồi. "Ông sẽ liên hệ với chủ sở hữu cho tôi nhé, Charles. Tôi không thể chịu được khi thấy cháu tôi thất vọng tại thời điểm hạnh phúc như vậy. "

Quý ngài Sutton đã giảm thành lặng lẽ .

"Nhà De Clermonts thật may mắn có được một mối quan hệ lâu dài và hạnh phúc như vậy với nhà Sotheby. Toà tháp của Matthew hẳn sẽ sụp đổ dưới sức nặng của những cuốn sách , nếu không gặp Samuel Baker."

"Chúa ơi." Quai hàm của Phoebe rớt xuống.

"Và ông đã lo liệu để dọn sạch hầu hết ngôi nhà của Matthew ở Amsterdam. Tôi không bao giờ thích bạn bè hay các bức tranh của cậu ta. Ông biết ý tôi là ai mà. Tên của ông ta là gì nhỉ?  Người mà tất cả những bức tranh của ông ta trông như còn dang dở ấy? "

"Frans Hals," Phoebe thì thầm, đôi mắt to tròn.

"Frans Hals." Ysabeau gật đầu đồng tình với cháu dâu tương lai của mình. "Bây giờ ông và tôi phải thuyết phục cậu ta cho đi bức chân dung ông tướng ảm đạm mà cậu ta đang treo trên lò sưởi trong phòng khách trên lầu."

Phoebe ré lên. Tôi ngờ rằng một chuyến đi đến Amsterdam sẽ được bao gồm trong một cuộc phiêu lưu của biên mục sắp tới của cô.

Quý ngài Sutton thực hiện một số bảo đảm, nhưng Ysabeau không thích thứ nào trong số đó.

"Tôi tin tưởng ông hoàn toàn, Charles," bà ngắt lời - mặc dù thật rõ ràng với tất cả mọi người, Quý ngài Sutton nói riêng, nhưng bà thì không. "Chúng ta có thể thảo luận về việc này với cà phê vào ngày mai."

Đến lượt quý ngài Sutton kêu quàng quạc. Một chuỗi những lời giải thích và biện minh nhanh chóng theo sau.

"Ông không cần phải đến với nước Pháp đâu. Tôi đang ở London. Khá gần với văn phòng của ông ở Bond Street, sự thật là vậy." Ysabeau vỗ má bằng ngón tay. "Mười một giờ? Tốt. Hãy trao lòng yêu mến của tôi cho Henrietta nhé. Hẹn ngày mai. "

Bà cúp máy. "Gì thế?" Bà hỏi, nhìn Phoebe và tôi lần lượt.

"Bà chỉ cần ngoắc ngón tay với quý Ngài Sutton!" Phoebe kêu lên. "Cháu đã nghĩ bà nói tài ngoại giao phải được yêu cầu."

"Ngoại giao, có. Ý đồ phức tạp, không có. Đơn giản thường là tốt nhất." Ysabeau mỉm cười nụ cười kiểu hổ của bà.

"Charles nợ Matthew rất nhiều. Theo thời gian, Phoebe, cháu cũng sẽ có nhiều sinh vật nợ nần cháu. Sau đó, cháu sẽ thấy thật dễ dàng là để đạt được mong muốn của cháu." Ysabeau nhìn tôi chăm chú. "Con trông nhợt nhạt quá, Diana. Con không vui vì sẽ sớm có được tất cả ba trang bị mất từ Sách của cuộc sống sao?"

"Vâng," tôi nói.

"Vậy, vấn đề là gì?" Ysabeau nhướng mày.

Vấn đề? Ngay khi tôi đã có ba trang bị mất, sẽ không có gì chắn giữa tôi và nhu cầu ăn cắp một bản thảo từ Thư viện Bodleian. Tôi sắp trở thành một tên trộm sách.

"Không có gì," Tôi nói yếu ớt.

Trở lại cái bàn tại nơi có tên Phòng Trung Quốc, tôi nhìn lần nữa những nét khắc của Kircher, cố gắng không nghĩ đến những gì có thể xảy ra trong lúc Phoebe và Ysabeau tìm trang sách thiếu cuối cùng. Không thể tập trung vào những nỗ lực để xác định vị trí mỗi nét khắc trên cây trong khối lượng công việc đáng kể của Kircher , tôi đứng dậy và đi về phía cửa sổ. Các đường phố bên dưới thật yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng một phụ huynh dẫn một đứa trẻ xuống vỉa hè hay một du khách đang nắm giữ một tấm bản đồ.

Matthew luôn luôn có thể đẩy tôi ra khỏi những lo lắng bằng một khúc hát, hoặc một trò đùa, hoặc (thậm chí tốt hơn) một nụ hôn. Nhu cầu cảm thấy gần gũi hơn với anh, tôi lang thang xuống hành lang trống ở tầng hai cho đến khi tôi tới phòng nghiên cứu của anh. Bàn tay tôi vơ vẩn trên núm cửa. Sau một lúc do dự, tôi vặn nó và đi vào bên trong.

Mùi thơm của quế và đinh hương ôm lấy tôi. Matthew không thể có ở đây trong mười hai tháng qua, nhưng sự vắng mặt của anh đã làm cho tôi nhạy cảm hơn với mùi hương của anh.

Bất luận sự trang trí nào đã thực hiện phòng ngủ sang trọng của tôi và sự phối hợp của phòng khách, nơi tôi trải qua cả buổi sáng, đã không được phép ở đây. Phòng này thật nam tính và không kiểu cách, những bức tường lót bằng kệ sách và cửa sổ. Những quả địa cầu lộng lẫy, một thiên thể, một trái đất khác – đặt trong đài gỗ, sẵn sàng để được tra cứu nếu một câu hỏi về thiên văn học hoặc địa lý tự tìm đến. Những quý vật của tự nhiên nằm rải rác đây đó trên những chiếc bàn nhỏ. Tôi bước theo một con đường thuận chiều kim đồng hồ quanh phòng như thể đang dệt một câu thần chú để mang Matthew trở lại, thỉnh thoảng dừng lại để kiểm tra một cuốn sách hay để cung cấp cho các thiên cầu một sự quay tròn. Những chiếc ghế lạ lùng nhất mà tôi từng nhìn thấy yêu cầu sự tạm dừng lâu hơn.  Lưng ghế cao, chạm khắc sâu của nó đã có một cuốn sách bọc da nằm cưỡi trên nó, và các chỗ ngồi đã được định hình khá giống với một yên ngựa. Cách duy nhất để chiếm cứ chiếc ghế sẽ là ngồi dạng chân qua nó, như Gallowglass làm mỗi khi anh quay ngược một chiếc ghế tại bàn phòng ăn. Một người nào đó đang ngồi dạng chân trên ghế và phải đối mặt với những cuốn sách đứng sẽ đặt một dụng cụ tạm thời ở độ cao hoàn hảo cho việc giữ một cuốn sách hoặc một số thiết bị để viết. Tôi đã thử lý thuyết này bằng cách đong đưa chân trên đệm ghế. Nó thoải mái đáng kinh ngạc, và tôi tưởng tượng Matthew đang ngồi đây, đọc hàng giờ trong ánh sáng dồi dào từ các ô cửa sổ.

Tôi nhảy xuống ghế và quay lại. Những gì tôi thấy treo trên lò sưởi khiến tôi thở hổn hển: một bức chân dung đôi bằng kích thước thật của Philippe và Ysabeau.

Mẹ và cha Matthew mặc quần áo lộng lẫy từ giữa thế kỷ thứ mười tám, thời kỳ hạnh phúc của thời trang khi áo của phụ nữ vẫn chưa giống lồng chim và những người đàn ông đã bỏ qua những lọn tóc dài và giày cao gót của thế kỷ trước. Ngón tay của tôi ngứa ngáy muốn chạm vào bề mặt của bức tranh, được thuyết phục rằng chúng sẽ được chạm vào lụa và ren hơn là vải dầu.

Sự nổi bật nhất của bức chân dung không phải là sự sống động của nhân vật (mặc dù điều đó sẽ là không thể không công nhận với Ysabeau) nhưng là cách mà người nghệ sĩ đã bắt được về mối quan hệ giữa Philippe và vợ của ông.

Philippe de Clermont phải đối mặt với người xem trong bộ đồ lụa màu kem và xanh lộng lẫy, đôi vai rộng lớn của ông vuông với khung vải và tay phải mở rộng về phía Ysabeau như thể ông đang giới thiệu bà. Một nụ cười chơi đùa trên đôi môi ông, dấu vết của sự mềm mại làm nổi bật các đường nghiêm khắc của khuôn mặt ông và thanh kiếm dài nhô khỏi đai lưng. Đôi mắt của Philippe, tuy vậy, đã không gặp mắt tôi như lẽ ra chúng nên làm thế trong vị trí của ông. Thay vào đó chúng được thể hiện trong cái liếc mắt xéo với Ysabeau. Không điều gì, dường như thế, có thể kéo sự chú ý của ông ra khỏi người phụ nữ ông yêu. Ysabeau được vẽ trông nghiêng ba phần tư, một bàn tay tựa nhẹ vào những ngón tay của chồng và tay khác nắm giữ những nếp gấp  của chiếc váy lụa màu kem và vàng như thể bà đang bước về phía trước để được gần gũi hơn với Philippe. Tuy nhiên thay vì nhìn lên chồng, Ysabeau nhìn chăm chú vào người xem, môi hé mở như thể ngạc nhiên khi bị gián đoạn trong một khoảnh khắc riêng tư như vậy.

Tôi nghe tiếng bước chân phía sau và cảm thấy cái chạm châm chích của ánh mắt một phù thủy.

"Đó có phải là cha của Matthew?" Sarah hỏi, đứng sát vai tôi và nhìn lên bức tranh lớn.

"Vâng. Đó là một bức chân dung tuyệt vời.” tôi nói với một cái gật đầu.

“Dì cũng đã hình dung như vậy, người nghệ sĩ nắm bắt được thần sắc Ysabeau hoàn hảo làm sao." Sự chú ý của Sarah quay sang tôi. "Con nhìn không khoẻ, Diana."

"Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên, đúng không?", Tôi nói. "Matthew đang ở đâu đó, cố gắng để đan kết một gia đình với nhau. Điều đó có thể khiến anh ấy bị giết chết, và chính con đã yêu cầu anh ấy làm điều đó."

“Ngay cả con cũng không thể khiến Matthew làm điều gì đó anh ta không muốn làm," Sarah nói thẳng thừng.

"Dì không biết những gì đã xảy ra ở New Haven, Sarah. Matthew phát hiện ra anh ấy đã có một cháu trai mà anh ấy không biết – Con trai của Benjamin - và một chắt nội nữa. "

"Fernando đã nói với dì tất cả về Andrew Hubbard, và Jack, và chứng cuồng máu," Sarah trả lời. "Ông ấy nói với dì rằng Baldwin cũng đã ra lệnh Matthew giết cậu bé - nhưng cháu không để cho anh ta làm điều đó."

Tôi ngước lên nhìn Philippe, ước gì tôi hiểu lý do tại sao ông đã bổ nhiệm Matthew de Clermont là sát thủ chính thức của gia đình. "Jack như một đứa con của chúng con, Sarah. Và nếu Matthew giết Jack, điều gì sẽ ngăn chặn anh ấy không giết chết cặp sinh đôi nếu chúng hoá ra cũng mắc chứng cuồng máu? "

"Không, ngay cả Baldwin cũng sẽ không yêu cầu Matthew giết chết máu thịt của chính mình," Sarah nói.

"Có," tôi buồn bã nói. "Ông ấy sẽ."

"Vậy thì, có vẻ như Matthew đang làm những gì anh ta phải làm," bà nói kiên quyết. "Con cũng cần phải làm công việc của con."

"Con," tôi nói, nghe có vẻ phòng thủ. "Công việc của con là phải tìm được trang bị mất từ Sách Sự Sống và sau đó đặt nó trở lại với nhau để chúng ta có thể sử dụng nó như là đòn bẩy - với Baldwin, với Benjamin, ngay cả Đại Hội Đồng."

"Con cũng phải chăm sóc cặp song sinh nữa," Sarah chỉ ra. "Đi vơ vẩn xung quanh ở đây một mình sẽ không khiến con - hoặc chúng - tốt hơn chút nào."

"Dì không dám chơi trò quân bài em bé với con đâu," tôi nói, lạnh lùng tức giận. "Con đang cố gắng rất nhiều để không ghét những đứa trẻ của riêng con - chưa kể đến Jack - ngay lúc này." Điều đó không công bằng, cũng chẳng hợp lý, nhưng tôi đang đổ lỗi cho chúng về sự chia cách của chúng tôi, cứ như thể tôi là người khăng khăng chống lại điều đó.

"Dì đã ghét con trong một thời gian." Giọng của Sarah thực tế. "Nếu không có con, Rebecca sẽ vẫn còn sống. Hoặc dì đã thuyết phục bản thân mình như vậy."

Những lời của dì không gây chút ngạc nhiên nào. Trẻ em luôn biết những người trưởng thành đang nghĩ gì. Em chưa bao giờ làm tôi cảm thấy rằng do lỗi của tôi mà cha mẹ tôi đã chết. Tất nhiên, dì ấy biết họ đang có kế hoạch gì và lý do tại sao. Nhưng Sarah là một câu chuyện khác.

"Sau đó, dì đã vượt qua nó," Sarah tiếp tục lặng lẽ. "Con cũng sẽ như vậy. Một ngày nào đó con sẽ nhìn cặp sinh đôi và sẽ nhận ra rằng Matthew ở ngay đó, nhìn vào con từ đôi mắt một đứa bé tám tuổi."

"Cuộc sống của con không có ý nghĩa gì khi không có Matthew," tôi nói. "Mất anh ấy không giống như mất đi một người em gái."

"Anh ta không thể là toàn bộ thế giới của con, Diana."

"Anh ấy đã," tôi thì thầm. "Và nếu anh ấy thành công trong việc tách khỏi nhà De Clermonts, anh ấy sẽ cần con ở bên cạnh như Ysabeau đã ở bên Philippe. Con sẽ không bao giờ có thể mang vừa đôi giày của bà ấy."

"Nhảm nhí." Sarah bị chống tay lên hông. "Và nếu con nghĩ rằng Matthew muốn con giống y như mẹ của mình thì anh ta điên rồi."

"Dì có rất nhiều điều cần tìm hiểu về ma cà rồng đấy." Bằng cách nào đó sự diễn đạt này nghe chẳng chút thuyết phục khi được thốt lên từ một phù thủy.

"Oh. Bây giờ dì thấy vấn đề rồi." Đôi mắt Sarah nheo lại. "Em đã nói rằng con sẽ trở lại với chúng ta hoàn toàn khác. Nhưng con vẫn đang cố gắng để trở thành thứ gì đó không phải là con." Dì chỉ ngón tay buộc tội tôi.

"Con đã mê tít tất cả về ma cà rồng một lần nữa."

"Dừng lại đi, Sarah."

"Nếu Matthew muốn một cô dâu ma cà rồng, anh ta có thể đã có lựa chọn của mình. Quỷ thật, anh ta có thể đã biến con thành một ma cà rồng vào cuối tháng Mười ở Madison.” Dì nói. "Con có hiến dâng cho anh ta hầu hết máu của con rồi còn gì."

"Matthew sẽ không thay đổi con," tôi nói.

"Dì biết. Anh ta đã hứa với dì như thế buổi sáng trước khi con rời đi." Sarah nhìn như ghim dao găm vào tôi. "Matthew không phiền rằng con là một phù thủy. Tại sao con lại phiền? "Khi tôi không trả lời, dì nắm lấy tay tôi.

"Chúng ta đang đi đâu vậy?" Tôi hỏi khi dì kéo tôi xuống cầu thang.

"Ra ngoài." Sarah dừng lại trước một đoàn ma cà rồng đứng ở sảnh trước. "Diana cần phải nhớ cô ấy là ai. Cậu cũng thế, Gallowglass."

"Ooo-kaaay," Gallowglass nói một cách khó khăn, rút ra hai âm tiết. "Chúng ta sắp đi xa à?"

"Làm thế quái nào tôi biết?" Sarah vặn lại. "Đây là lần đầu tiên của tôi ở London. Chúng ta sẽ đến căn nhà cũ của Diana – căn nhà mà cô ấy và Matthew đã chia sẻ trong năm 1590. "

"Ngôi nhà của con đã biến mất rồi, nó đã bị thiêu rụi trong hỏa hoạn," tôi nói, cố gắng trốn thoát.

"Chúng ta sẽ đi bất kỳ đâu."

"Oh, Chúa Kitô." Gallowglass ném một bộ chìa khóa xe vào Leonard. "Lấy xe, Lenny. Chúng ta sẽ đi lộ trình ngày chủ nhật."

Leonard cười toe toét. "Đúng vậy."

"Ai vậy?" Sarah nói, quan sát khi chàng ma cà rồng đường phố lao ra phía sau ngôi nhà.

"Cậu ta thuộc về Andrew," tôi giải thích.

"Nói cách khác, cậu ta thuộc về con," dì nói với một cái gật đầu. Hàm của tôi trễ xuống. "Ồ, phải. Dì biết tất cả về ma cà rồng và những đường lối điên rồ của họ." Có vẻ như, Fernando không có sự miễn cưỡng tương tự như Matthew và Ysabeau đã có khi kể những câu chuyện về ma cà rồng.

Leonard lao đến cửa trước với một tiếng rít của các lốp xe. Cậu đã ra khỏi xe và mở cửa sau trong chớp mắt. "Đi đâu, thưa madame?"

Tôi đã bị một pha đúp. Đây là lần đầu tiên Leonard không vấp tên của tôi. "Ngôi nhà của Diana, Lenny," Sarah trả lời. "Ngôi nhà thật sự của cô ấy, không phải là cái hang trú ẩn đầy thỏ, trang trí quá mức này."

"Tôi xin lỗi, nhưng nó không còn ở đó nữa, thưa bà," Leonard cho biết, như thể trận  Đại hỏa hoạn của London là lỗi của mình. Biết về Leonard, điều này là hoàn toàn có thể.

"Ma cà rồng không có trí tưởng tượng chút nào à?" Sarah hỏi chua ngoa. "Đưa tôi tới nơi mà căn nhà đã từng ở."

"Oh." Leonard nhìn Gallowglass, mắt mở to.

Gallowglass nhún vai. "Chú mày đã nghe thấy quý bà nói rồi đấy," cháu trai của tôi nói.

Chúng tôi vọt qua London, tiến về hướng đông. Khi chúng tôi đi qua Temple Bar và chuyển lên Fleet Street, Leonard chuyển qua phía nam về hướng dòng sông.

"Đường này không đúng," tôi nói.

"Đường một chiều, madame," cậu ta nói. "Mọi thứ đã thay đổi một chút khi bà ở đây lần cuối cùng." Cậu ta đã làm một cú rẽ trái gấp ở phía trước Nhà ga Blackfriars. Tôi đặt tay lên nắm cửa để ra ngoài và nghe thấy một tiếng click khi các ổ khóa ngăn ngừa trẻ em khớp lại.

"Ở yên trong xe, Thím," Gallowglass nói.

Leonard giật tay lái sang bên trái một lần nữa, và chúng tôi nảy lên trên vỉa hè và mặt đường thô.

"Blackfriars Lane," tôi nói, đọc các biển hiệu vòng vèo lướt qua. Tôi lắc tay nắm cửa. "Thả tôi ra."

Chiếc xe dừng lại đột ngột ngang qua lối vào một cầu tàu nổi.

"Ngôi nhà của bà, madame," Leonard cho biết, nghe giống như một hướng dẫn viên du lịch, và ra hiệu về tòa nhà văn phòng gạch màu đỏ và kem lờ mờ hiện ra trên chúng tôi. Cậu ta buông khóa cửa. "Nó an toàn để đi bộ. Hãy nhớ những vỉa hè không đồng đều. Không muốn phải giải thích cho Cha H làm thế nào bà bị gãy chân đâu, phải không? "

Tôi bước ra vỉa hè lát đá. Đó là chỗ đứng vững chắc hơn so với bùn và chất bẩn bình thường  của Water Lane, như chúng tôi gọi con đường vào năm 1590. Tự động tôi tiến về hướng của Nhà thờ St. Paul. Tôi cảm thấy một bàn tay trên khuỷu tay của tôi, giữ tôi lại.

"Thím biết  Chú cảm thấy thế nào về việc Thím lang thang khắp thành phố mà không có người đi kèm." Gallowglass khom người, và trong một thoáng tôi như thấy lại anh  trong áo chẽn và quần tất. "Dưới sự chỉ dẫn của bà, Madame Roydon."

"Chính xác thì chúng ta đang ở đâu vậy?" Sarah hỏi, quét qua các con hẻm gần đó. "Chỗ này không giống như một khu dân cư."

"The Blackfriars. Ngày xửa ngày xưa, hàng trăm người dân sống ở đây." chỉ mất một vài bước để tôi đến được một con đường rải sỏi hẹp đã từng dẫn đến khuôn viên bên trong của Tu viện Blackfriars cũ. Tôi cau mày và chỉ. "Không phải Cadinal’s Hat ở đó sao?" Đó là một trong những lỗ tưới nước của Kit Marlowe.

"Trí nhớ tốt đấy, Thím. Họ gọi nó là Playhouse Yard bây giờ."

Nhà chúng tôi gắn vào phần phía sau của tu viện cũ. Gallowglass và Sarah đi theo tôi vào một hẻm cụt. Trước đây nó từng được lấp đầy với thương nhân, thợ thủ công, các bà nội trợ, người học nghề, và trẻ em, chưa kể đến xe, chó, và gà. Hôm nay nó đã bị bỏ hoang.

"Chậm lại nào," Sarah nói cáu kỉnh, đấu tranh để theo kịp.

Không quan trọng bao nhiêu khu phố cũ đã thay đổi. Trái tim tôi đã cung cấp các hướng dẫn cần thiết, và bàn chân của tôi theo sau, nhanh chóng và chắc chắn. Trong năm 1591 tôi sẽ được bao quanh bởi các khu dân cư tồi tàn và vui chơi giải trí phức tạp đã nổi lên trong khu tu viện cũ. Bây giờ có những tòa nhà văn phòng, một nơi cư trú nhỏ phục vụ giám đốc điều hành kinh doanh lắm tiền, các tòa nhà văn phòng nhiều hơn, và các trụ sở của các nhà bào chế thuốc của London. Tôi vượt qua Playhouse Yard và trượt vào giữa hai tòa nhà.

" Giờ cô ấy đang đi đâu thế?" Sarah hỏi Gallowglass, sự cáu kỉnh tăng cao.

“Trừ phi tôi mất tính phỏng đoán của tôi, Thím đang tìm cách trở lại Lâu đài Baynard."

Tại chân của một đại lộ hẹp gọi là Lối vào nhà Thờ, tôi dừng lại để định phương vị của tôi. Nếu tôi có thể định hướng cho bản thân mình đúng, tôi có thể tìm đường đến nhà của Mary. Cửa hàng in ấn của Fields ở đâu nhỉ? Tôi nhắm mắt để tránh sự phân tâm từ các tòa nhà hiện đại không thích hợp.

"Ngay đó," Tôi chỉ. "Đó là nơi mà cửa hàng của Fields đã ở. Các nhà bào chế thuốc đã sống trong một vài ngôi nhà dọc theo con lộ. Lối này dẫn xuống bến cảng." Tôi tiếp tục quay cánh tay của tôi, truy theo đường lối của các tòa nhà mà tôi thấy trong tâm trí. "Cánh cửa đến cửa hàng bạc Monsieur Vallin đã đứng ở đây. Các vị có thể nhìn thấy khu vườn sau của chúng tôi từ chỗ này. Và đây là cái cổng cũ mà tôi đã đi qua để đến lâu đài Baynard." Tôi đứng một lát, ngâm mình trong cảm giác quen thuộc của ngôi nhà cũ và ước chi khi mở mắt ra tôi có thể thấy mình trong cung điện của nữ bá tước của Pembroke. Mary sẽ hiểu tình trạng khó khăn hiện tại của tôi một cách hoàn hảo và hào phóng với những trải nghiệm của mình về các vấn đề triều đại và chính trị.

"Quỷ thần ơi," Sarah thở hổn hển.

Mắt tôi mở choàng. Một cánh cửa bằng gỗ trong suốt đã ở cách đó một vài thước, đặt trong một bức tường đá đổ nát trong suốt tương đương. Bị mê hoặc, tôi đã cố gắng lấy một bước về phía đó nhưng bị ngăn lại bởi các sợi chỉ màu xanh và hổ phách hoà quyện chặt quanh chân tôi.

"Đừng cử động!" Sarah nghe có vẻ hoảng sợ.

"Tại sao?" Tôi có thể nhìn thấy dì ấy xuyên qua màng lưới của mặt trước một cửa hàng thời Elizabeth.

"Con đã đúc ra một thần chú nghịch đảo thời gian. Nó sẽ tua lại những hình ảnh từ quá khứ, giống như một bộ phim.” Sarah nói, nhìn chăm chú vào tôi qua cửa sổ cửa hàng bánh  của Master Prior.

"Pháp thuật", Gallowglass rên rỉ. "Đúng y những gì chúng ta cần."

Một người phụ nữ cao tuổi trong một chiếc áo len màu xanh hải quân gọn gàng và một chiếc váy màu xanh nhạt, kiểu người có rất nhiều ở đây và bây giờ đã bước ra khỏi tòa nhà căn hộ gần đó.

"Cô sẽ tìm thấy phần này của London có thể là một chút ăn nói uyển chuyển, ảo diệu," bà gọi ra trong một tông giọng quyền, giai điệu vui vẻ mà chỉ có phụ nữ Anh trong một độ tuổi nhất định và địa vị xã hội mới có thể làm được.

"Cô sẽ muốn có một số biện pháp phòng ngừa nếu cô định đúc thêm bất kỳ thần chú nào."

Khi người phụ nữ đến gần, tôi bị ấn tượng bởi một cảm giác déjà vu*. Bà nhắc nhở tôi về một trong những phù thủy tôi biết năm 1591- một phù thuỷ đất tên là Marjorie Cooper, người đã giúp tôi dệt thần chú đầu tiên của tôi.

* déjà vu : Ký ức ảo giác. Thuật ngữ này được sáng tạo bởi một nhà tâm linh học người Pháp Èmile Boirac để nói về hiện tượng cảm thấy quen thuộc như đã từng chứng kiến hoặc từng trải qua trước đây rồi, trước một môi trường hoặc một sự kiện hoàn toàn mới.

"Tôi là Linda Crosby." Bà mỉm cười, và sự tương đồng với Marjorie trở nên rõ rệt hơn.

"Chào mừng, Diana Bishop. Chúng tôi đã chờ đợi cô."

Tôi nhìn chằm chằm vào bà, sững sờ.

"Tôi là dì của Diana," Sarah nói, tấn công vào im lặng. "Sarah Bishop."

"Hân hạnh", Linda nồng nhiệt nói, lắc tay của Sarah. Cả hai phù thủy nhìn chằm chằm xuống chân tôi. Trong suốt lời giới thiệu ngắn gọn của chúng tôi, màu xanh và màu hổ phách ràng buộc thời gian đã nới lỏng một chút, mờ dần đi từng sợi một khi chúng tan lẫn vào các kết cấu công trình của Blackfriars. Tuy nhiên cửa trước của Monsieur Vallin là vẫn còn quá rõ ràng.

"Tôi sẽ cho nó một vài phút nữa. Rốt cuộc thì cô là một người du hành thời gian mà.” Linda nói, ngồi vào một trong những băng ghế cong bao quanh một chậu cây trồng hình tròn lát gạch. Nó chiếm cùng một chỗ đã từng là một miệng giếng trong sân của  Cardinal’s Hat.

"Bà là một người trong gia đình Hubbard à?" Sarah hỏi, cho tay vào túi áo. Lấy ra gói thuốc lá bị cấm đoán của dì. Bà mời Linda một điếu.

"Tôi là một phù thủy," Linda nói, nhận lấy điếu thuốc. "Và tôi sống ở thành phố London. Vì vậy, phải, tôi là một thành viên của gia đình Cha Hubbard. Tự hào được như vậy."

Gallowglass thắp thuốc lá cho các phù thủy và sau đó cho chính mình. Cả ba phì phèo như những ống khói, cẩn thận hướng luồng khói không thoảng về phía tôi.

"Tôi chưa từng gặp Hubbard," Sarah thú nhận. "Hầu hết các ma cà rồng mà tôi biết tôi không nghĩ nhiều về ông ta."

"Thật sao?" Linda hỏi với sự thích thú. “Thật kỳ quặc làm sao. Cha Hubbard là một nhân vật được yêu quý ở đây. Ông bảo vệ lợi ích của mọi người, dù là daemon, ma cà rồng, hay phù thủy. Vì vậy, nhiều sinh vật đã muốn di chuyển vào lãnh thổ của ông ấy đến nỗi dẫn đến một cuộc khủng hoảng nhà ở. Ông ấy không thể mua bất động sản đủ nhanh để đáp ứng nhu cầu."

"Ông ta vẫn là một đồ khốn," Gallowglass lẩm bẩm.

"Ngôn ngữ!" Linda nói, sửng sốt.

“Bao nhiêu phù thủy đang ở trong thành phố?" Sarah hỏi.

"Ba chục," Linda trả lời. "Chúng tôi giới hạn số lượng, tất nhiên, hoặc Square Mile sẽ rối tung lên."

"Coven của Madison cũng cùng kích thước," Sarah nói đồng tình. “Chắc chắn sẽ  dễ dàng hơn để tổ chức những buổi hội họp."

"Chúng tôi tụ tập một lần một tháng trong hầm mộ của Cha Hubbard. Ông đã sống trong phần còn lại của Tu Viện Greyfriars ở ngay đàng kia." Linda hướng điếu thuốc của mình vào một điểm phía bắc Playhouse Yard. "Những ngày này hầu hết các sinh vật trong thành phố thích là ma cà rồng-tài chính và các nhà quản lý quỹ đầu cơ và như vậy. Họ không muốn cho phù thuỷ thuê phòng họp của họ. Không xúc phạm đâu nhé, thưa ông. "

"Không hề cảm thấy", Gallowglass nói nhẹ nhàng.

"Greyfriars? Lady Agnes có chuyển đến đó không?" Tôi ngạc nhiên hỏi. Trò hề của con ma đã được bàn tán trong thị trấn khi tôi sống ở đây.

"Ồ không. Lady Agnes vẫn còn ở đó. Với sự giúp đỡ của Cha Hubbard, chúng tôi đã có thể làm trung gian cho một thỏa thuận giữa bà ấy và nữ hoàng Isabella. Họ dường như có quan hệ thân thiện vào lúc này, nhiều hơn tôi có thể nói về hồn ma của Elizabeth Barton. Kể từ khi cuốn tiểu thuyết về Cromwell được phát hành, bà ta đã không thể. "Linda nhìn bụng tôi suy đoán. "Tại tiệc trà Mabon của chúng tôi trong năm nay, Elizabeth Barton đã cho biết cô đang mang thai đôi."

"Tôi có." Ngay cả những bóng ma của London cũng biết công việc của tôi.

"Thật khó để nói rằng những lời tiên tri của Elizabeth là nghiêm túc khi mỗi một trong số chúng đều đi kèm bởi tiếng thét. Nó hết sức. . . thô tục." Linda bĩu môi chê bai, và Sarah gật đầu thông cảm.

"Um, tôi ghét phải phá hỏng điều này, nhưng tôi nghĩ rằng câu thần chú của tôi cho sự nghịch đảo vật chất đã hết hạn." Không chỉ vì tôi có thể nhìn thấy mắt cá chân của chính tôi (là tôi nhấc chân lên – không phải các em bé ngáng đường đâu), ma còn là cánh cửa của Monsieur Vallin đã hoàn toàn biến mất.

"Hết hạn?" Linda bật cười. "Cô làm cho nó nghe có vẻ như pháp thuật của cô là món hàng bán có thời hạn vậy."

"Tôi chắc chắn đã không nói nó dừng lại," Tôi càu nhàu. Nhưng tôi cũng chưa bao giờ nói nó bắt đầu.

"Nó dừng lại vì con đã không cột nó đủ chặt," Sarah nói. “Nếu con không trao cho thần chú đảo nghịch một khởi động tốt, nó sẽ yếu dần.”

"Và chúng tôi khuyên cô không nên đứng trên đỉnh của các thần chú nghịch đảo một khi cô đúc nó," Linda nói, nghe hơi giống người giáo viên thể dục trung học của tôi. "Cô nên muốn toàn tâm toàn ý hô thần chú mà không chớp mắt, sau đó bước ra khỏi nó ở phút cuối cùng."

"Sai lầm của tôi," tôi thì thầm. "Tôi có thể di chuyển bây giờ chưa?"

Linda khảo sát Playhouse Yard với một cái cau mày. "Có, tôi tin rằng nó hoàn toàn an toàn bây giờ," bà tuyên bố.

Tôi rên rỉ và xoa lưng. Đứng yên quá lâu đã làm nó đau, và bàn chân của tôi cảm thấy như đang sắp nổ tung. Tôi chống một trong số chúng trên chiếc ghế mà Sarah và Linda đang ngồi và cúi xuống để nới lỏng các sợi dây giày của tôi.

"Cái gì thế?" Tôi nói, nhìn qua thanh của băng ghế. Tôi với tay xuống và lấy ra một cuộn giấy được cột một dải ruy băng màu đỏ. Các ngón tay trên bàn tay phải của tôi râm ran khi tôi chạm vào nó, và ngôi sao năm cánh ở cổ tay của tôi cuồn cuộn màu sắc.

"Đó là truyền thống cho mọi người để lại yêu cầu về phép thuật trong sân. Luôn luôn có một sự tập trung quyền lực gắn liền với chỗ này." Giọng nói của Linda dịu lại. "Một phù thủy vĩ đại đã từng sống ở đây, cô nhìn xem. Truyền thuyết kể rằng cô ấy sẽ trở lại một ngày nào đó, để nhắc nhở chúng ta về tất cả những gì chúng ta đã từng là và có thể là một lần nữa. Chúng tôi đã không quên cô ấy và tin tưởng rằng cô ấy sẽ không quên chúng tôi."

Các phù thuỷ ở Blackfriars đã bị ám ảnh bởi quá khứ của chính tôi. Một phần trong tôi đã chết khi chúng tôi để lại London. Đó là phần trước đây đã từng có thể tung hứng như là vợ của Matthew, mẹ của Jack và Annie, trợ lý  của nhà giả kim Mary Sidney, và một thợ dệt-học việc. Và một phần khác của tôi đã gia nhập với nó trong nấm mộ khi tôi rời khỏi Matthew trên ngọn núi bên ngoài New Haven. Tôi vùi đầu vào đôi tay.

"Tôi đã tạo ra một mớ hỗn độn," tôi thì thầm.

"Không, con đã lao xuống vực sâu và đập vào đầu con," Sarah trả lời. "Đây là những gì Em và dì đã lo lắng khi con và Matthew dính líu vào lúc đầu. Cả hai di chuyển quá nhanh, và chúng tôi biết rằng cả hai đều không nghĩ về những gì mối quan hệ này  sẽ yêu cầu."

"Chúng con biết chúng con sẽ phải đối mặt với rất nhiều sự phản đối."

"Oh, cả hai đã vướng vào kiểu tình yêu của các vì tinh tú*, và dì hiểu cảm giác thật lãng mạn làm sao khi chỉ có hai người chống lại thế giới." Sarah cười khúc khích. "Rốt cuộc, Em và dì đã từng là đôi tình nhân sao băng* mà. Ở ngoại ô New York vào những năm 1970, khi hai người phụ nữ rơi vào tình yêu chẳng khác gì hai ngôi sao bị hút vào nhau."

* Star-crossed-lovers : thuật ngữ này được Shakespeare dùng trong vở kịch ‘Roméo và Juliet’ để chỉ tình yêu bị cấm đoán. Các ngôi sao thu hút nhau, yêu nhau - rất đẹp khi xa cách và là thảm hoạ khi kết hợp - huỷ hoại nhau và xung quanh. – Chẳng biết diễn giải ra sao lun)

Giọng dì gia tăng nghiêm trọng. "Nhưng mặt trời luôn mọc vào sáng hôm sau. Câu chuyện cổ tích không nói cho con biết nhiều về những gì sẽ xảy ra với tình yêu sao băng trong ánh sáng ban ngày, nhưng bằng cách nào đó con phải tìm ra làm thế nào để được hạnh phúc."

"Chúng con đã hạnh phúc ở đây", tôi khẽ nói. "Đúng không, Gallowglass?"

"Aye, Thím, thím đã hạnh phúc ngay cả với tổ chức gián điệp của Matthew thở xuống cổ chú ấy và cả nước đang truy lùng các phù thủy." Gallowglass lắc đầu. "Làm thế nào thím đối phó được với điều đó, tôi đã không bao giờ hiểu."

"Con đã đối phó được bởi vì cả hai đều đã không cố gắng để trở thành thứ gì đó không phải chính mình. Matthew đã không cố gắng để trở nên văn minh, và con đã không cố gắng để trở thành một con người.” Sarah nói. "Con đã không cố gắng để trở thành đứa con gái hoàn hảo của Rebecca, hoặc người vợ hoàn hảo của Matthew, hay một giáo sư gạo cội tại Yale."

Dì nắm lấy tay tôi trong tay mình, cuộn tròn quanh cả hai, và lật chúng để lòng bàn tay hướng lên. Dây thợ dệt của tôi rực rỡ đối nghịch với da thịt xanh xao.

"Con là một phù thủy, Diana. Một thợ dệt. Đừng phủ nhận sức mạnh của con. Hãy sử dụng nó." Sarah nhìn chăm chú vào bàn tay trái của tôi. "Tất cả chúng."

Điện thoại của tôi kêu ping trong túi áo khoác. Tôi giật mình vì nó, mong mỏi đến tuyệt vọng đó là một loại thông điệp từ Matthew. Anh đã hứa sẽ cho tôi biết anh đã tiến hành ra sao. Màn hình hiển thị cho thấy có một văn bản đang chờ đợi từ anh ấy. Tôi mở nó háo hức.

Thông điệp này không chứa những từ mà Đại Hội Đồng có thể sử dụng để chống lại chúng tôi, chỉ có một hình ảnh của Jack.

Cậu bé đang ngồi trên một hiên nhà, khuôn mặt tách ra thành một nụ cười toe toét khi đang lắng nghe ai đó - một người đàn ông, mặc dù lưng của ông ấy quay về máy ảnh và tôi không thể thấy nhiều hơn một mái tóc quăn màu đen ôm quanh cổ áo - kể một câu chuyện như thể chỉ một người miền Nam có thể làm. Marcus đứng đằng sau Jack, một tay hờ hững choàng qua vai cậu bé.

Giống như Jack, cậu cũng đang cười toe toét.

Họ trông giống như hai người đàn ông trẻ bình thường thưởng thức một tiếng cười cùng nhau vào cuối tuần. Jack hoàn toàn khớp với gia đình của Marcus, như thể cậu bé thuộc về họ.

"Ai ở cùng Marcus vậy?" Sarah nói, nhìn qua vai tôi.

"Jack." Tôi chạm vào gương mặt cậu bé. "Con không chắc người đàn ông khác là ai".

"Đó là Ransome." Gallowglass khịt mũi. "Kẻ già nhất của Marcus, và gã khiến cho Lucifer cũng phải xấu hổ. Không phải là hình mẫu tốt nhất cho nhóc Jack, nhưng tôi nghĩ Matthew biết rõ nhất. "

"Hãy nhìn vào các chàng trai," Linda nói trìu mến, đứng lên để bà cũng có thể nhìn vào bức ảnh. "Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Jack có vẻ hạnh phúc như thế - ngoại trừ khi cậu bé nói chuyện về Diana, tất nhiên."

Chuông St. Paul điểm giờ. Tôi đẩy các nút trên điện thoại của tôi, làm mờ màn hình. Tôi sẽ nhìn lại bức ảnh sau, trong sự riêng tư.

"Xem này, mật ong. Matthew đang làm rất tốt.” Sarah nói, giọng nhẹ nhàng.

Nhưng không được nhìn vào đôi mắt của anh, đánh giá hình thể đôi bờ vai anh, nghe giọng nói của anh, tôi không thể chắc chắn.

"Matthew đang làm công việc của mình," Tôi nhắc nhở bản thân, đứng lên. "Con cần phải trở lại với công việc của con."

"Điều đó có nghĩa là con đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì để giữ cho gia đình của con ở bên nhau như con đã làm trong năm 1591, thậm chí nếu pháp thuật tối cao có liên quan?" Lông mày của Sarah bắn lên trong sự chất vấn không che dấu.

"Vâng." Tôi nghe có vẻ thuyết phục hơn tôi cảm thấy.

"Phép thuật tối cao? Sự tăm tối tuyệt vời làm sao" Linda cười rạng rỡ. "Tôi có thể giúp chứ?"

"Không," tôi nói nhanh.

"Có thể," Sarah nói cùng lúc.

"Chà, nếu cô cần chúng tôi, Hãy gởi một chiếc nhẫn. Leonard biết làm thế nào để tiếp cận với tôi.” Linda nói. "Cộng đồng phù thuỷ London ở dưới sự sắp xếp của cô. Và nếu cô đến với một trong các cuộc họp của chúng tôi, nó sẽ là một động lực đáng kể để nâng cao tinh thần. "

"Chúng ta sẽ thấy," tôi nói một cách mơ hồ, không muốn tạo ra một lời hứa mà tôi không thể giữ. "Tình hình phức tạp, và tôi không muốn bất cứ ai gặp rắc rối."

"Ma cà rồng luôn rắc rối," Linda nói với vẻ chê bai nghiêm túc. “Ôm giữ mối hận thù và vênh váo tiến hành một số sự trả thù máu hay thứ gì đó khác. Nó thực sự rất phiền phức. Tuy nhiên, chúng ta là một gia đình lớn, như Cha Hubbard nhắc nhở chúng ta."

"Một gia đình lớn." Tôi nhìn khu phố cũ của chúng tôi. "Có lẽ Cha Hubbard đã đi đúng đường."

"Vâng, chúng tôi nghĩ vậy. Hãy cân nhắc đến cuộc họp tiếp theo của chúng tôi. Doris sẽ làm một chiếc bánh Battenberg thần thánh."

Sarah và Linda trao đổi số điện thoại chỉ để phòng hờ, và Gallowglass đi đến Apothecaries' Hall và buột ra một tiếng huýt inh tai để gọi Leonard đang ở đâu đó cùng với chiếc xe. Tôi đã có cơ hội để chụp một bức ảnh của Playhouse Yard và gửi nó cho Matthew mà không có một bình luận hoặc một chú thích nào.

Sau rốt, Magic không có gì nhiều hơn là mong muốn hiện thực,.

Làn gió tháng mười đã rời khỏi sông Thames và mang những lời nguyện ước không lời của tôi vào bầu trời, nơi chúng dệt lên một câu thần chú để mang Matthew trở lại với tôi.


Không có nhận xét nào: