Thứ Năm, 14 tháng 9, 2017

Mật mã 3 - Chương 24

Chương 24






"Đây không thể là nhà của tôi, Leonard." Mặt tiền năm cửa sổ rộng rãi của ngôi biệt thự bằng gạch nguy nga và bốn tầng lầu cao chót vót tại một trong những khu phụ cận sang trọng nhất London thật không thể tưởng tượng được. Dù vậy, tôi cảm thấy một sự đau nhói hối tiếc. Các ô cửa sổ cao được viền trắng để nổi bật trên tường gạch ấm áp, lớp kính cũ của chúng nhấp nháy trong ánh nắng buổi trưa. Bên trong, tôi hình dung rằng ngôi nhà sẽ tràn ngập ánh sáng. Nó cũng sẽ ấm áp, vì không chỉ có hai ống khói như thông thường mà có tới ba. Và đã có đủ vật dụng bằng đồng được đánh bóng trên cửa trước để bắt đầu một ban nhạc diễu hành. Nó hẳn đã có một  lịch sử khá huy hoàng để gọi là nhà.

"Đây là nơi tôi được bảo phải đến, Mistress. . . ờ, Mrs. . .um, Diana." Leonard Shoreditch, người bạn thuở xưa của Jack và một người khác của băng đảng các chàng trai thất lạc tai tiếng của Hubbard, đã chờ đợi – cùng với Hamish - trong bãi đáp tư nhân tại Sân bay thành phố London ở Docklands. Leonard giờ đang đậu chiếc Mercedes và vươn cổ trên chỗ ngồi, chờ hướng dẫn thêm.

"Tôi hứa với cô đó là ngôi nhà của cô, Thím. Nếu cô không thích nó, chúng ta sẽ đổi nó lấy một căn mới. Nhưng chúng ta hãy thảo luận về giao dịch bất động sản tương lai bên trong nhà - không phải trên đường phố, nơi bất cứ sinh vật nào có thể nhìn thấy chúng ta. Lấy hành lý đi, chàng trai." Gallowglass trèo ra khỏi ghế hành khách phía trước và đóng sầm cửa lại phía sau anh. Anh vẫn còn tức giận vì không được tự mình chở chúng tôi đến Mayfair. Nhưng tôi đã được chở đi vòng quanh London bởi Gallowglass trước đây và thích có cơ hội của tôi với Leonard hơn.

Tôi trao cho căn biệt thự một cái nhìn ngờ vực khác.

"Đừng lo lắng, Diana. Ngôi nhà Clairmont không quá đồ sộ bên trong như nó thể hiện bên ngoài. Có cầu thang, tất nhiên. Và một số các thạch cao trang trí.” Hamish nói khi ông mở cửa xe. "Hãy nghĩ về điều đó, toàn bộ ngôi nhà thì khá lớn."

Leonard mò mẫm trong cốp xe và lấy ra chiếc vali nhỏ của tôi và bảng hiệu viết tay lớn mà cậu ấy đang giữ khi đón chúng tôi. Leonard đã muốn làm các thứ hợp cách, cậu nói thế, và bảng hiệu mang tên Clairmont bằng mẫu tự in lớn. Khi Hamish bảo cậu, chúng tôi cần phải kín đáo, Leonard đã gạch một đường thẳng ngang qua cái tên ấy và viết nguệch ngoạc cái tên Roydon bên dưới nó trong những mẫu tự thậm chí còn đậm hơn bằng cách sử dụng một cây viết lông dầu.

"Làm thế nào ông biết để gọi cho Leonard?" Tôi hỏi Hamish khi ông giúp tôi ra khỏi xe. Khi được nhìn thấy lần cuối vào năm 1591, Leonard đã có mặt ở đó với một chàng trai khác mang cái tên kỳ lạ phù hợp, Amen Corner. Như tôi nhớ, Matthew đã ném một con dao găm vào cả hai chỉ đơn giản để gởi một thông điệp cho Cha Hubbard. Tôi không thể tưởng tượng rằng chồng tôi đã giữ liên lạc với một trong hai người đàn ông trẻ tuổi ấy.

"Gallowglass nhắn tin cho tôi số điện thoại. Cậu ấy nói chúng ta nên giữ cho công việc của chúng ta trong phạm vi gia đình càng nhiều càng tốt." Hamish hướng đôi mắt tò mò về tôi. "Tôi không biết Matthew sở hữu một doanh nghiệp cho thuê xe hơi riêng."

"Công ty này thuộc về cháu trai Matthew." Tôi đã dành phần lớn cuộc hành trình từ sân bay nhìn chằm chằm vào tờ rơi quảng cáo trong túi phía sau ghế lái quảng cáo các dịch vụ của Hubbards of Houndsditch, Ltd. “Tự hào đáp ứng những nhu cầu vẩn chuyển hành khách chuyên biệt nhất London kể từ năm 1917."

Trước khi tôi có thể giải thích thêm, một người phụ nữ luống tuổi với cặp hông phì nhiêu và khuôn mặt cau có quen thuộc kéo mở cánh cửa màu xanh cong cong. Tôi nhìn chằm chằm với vẻ choáng váng.

"Trông bà có vẻ tươi tốt, Marthe." Gallowglass khom người xuống hôn bà. Sau đó, anh quay lại cau mày nhìn xuống những bậc thang ngắn cất cao từ vỉa hè. "Tại sao cứ đứng yên trên lề đường thế, Thím?"

"Tại sao Marthe ở đây?" Cổ họng tôi khô khốc và câu hỏi buột ra như một tiếng rên rỉ.

"Có phải đó là Diana?" Giọng nói như chuông ngân của Ysabeau qua tiếng rì rầm yên tĩnh của âm thanh thành phố. "Marthe và ta đang ở đây để giúp đỡ, tất nhiên."

Gallowglass huýt sáo. "Bị bắt giữ trái với ý muốn có vẻ hợp với bà đấy, Granny. Bà đã không có vẻ sống động như thế kể từ khi Victoria lên ngôi."

"Nịnh quá đi". Ysabeau vỗ má người cháu nội. Sau đó, bà nhìn tôi và thở hổn hển. "Diana đang trắng bợt như tuyết, Marthe. Đưa con bé vào bên trong, Gallowglass. Ngay."

"Nghe bà đi nào, Thím," anh nói, quét tôi ra khỏi chân và bước qua khỏi bậc thềm.

Ysabeau và Marthe đẩy tôi qua lối vào thoáng mát với sàn đá cẩm thạch màu đen-trắng sáng lấp lánh và một cầu thang cong lộng lẫy đến mức khiến tôi thở hổn hển. Bốn vòng cầu thang dẫn lên đỉnh với một mái vòm đón nhận ánh nắng mặt trời và làm nổi bật các chi tiết chạm khắc.

Từ đó tôi được dẫn vào một căn phòng tiếp tân yên tĩnh. Những bức màn dài màu xám bằng lụa in hoa treo trên các cửa sổ, màu sắc của chúng là một sự tương phản thú vị với các bức tường màu kem. Nệm ghế được bọc trong các sắc thái của màu xanh đá, đất nung, kem, và màu đen để nhấn mạnh màu xám, và hương thơm thoang thoảng của quế và đinh hương bám lấy tất cả chúng. Thị hiếu của Matthew cũng ở khắp mọi nơi: trong một mô hình vũ trụ nhỏ, dây điện bằng đồng của nó lấp lánh; một mảnh sứ Nhật Bản; tấm thảm mang màu ấm áp.

"Xin chào, Diana. Tôi nghĩ dì có thể cần trà." Phoebe Taylor tiến đến, đi kèm với hương thơm của hoa tử đinh hương và tiếng lanh canh nhẹ nhàng của bạc và đồ sứ.

"Tại sao bạn không ở Sept-Tours?" Tôi hỏi, kinh ngạc tương đương khi nhìn thấy cô ấy.

"Ysabeau nói với tôi rằng tôi được cần đến ở đây." Đôi gót màu đen trang nhã của Phoebe khua lách cách trên sàn gỗ bóng.

Cô nhìn Leonard khi đặt khay trà xuống một chiếc bàn thanh nhã đã được đánh bóng lộng lẫy đến mức tôi có thể nhìn thấy ảnh phản chiếu của mình trong đó. "Tôi rất xin lỗi, nhưng tôi không tin rằng chúng ta đã gặp nhau. Anh có muốn một ít trà không?"

"Leonard Shoreditch, ma-madam, dịch vụ của bạn," Leonard nói, hơilắp bắp một chút. Cậu cúi xuống trong một vòng cung cứng nhắc. "Và cảm ơn cô. Tôi tha thiết có được một ít trà. Trắng. Bốn viên đường. "

Phoebe đổ chất lỏng đang bốc khói vào một cái tách và đặt chỉ ba khối đường trong đó trước khi cô đưa nó cho Leonard. Marthe khịt mũi và ngồi xuống một chiếc ghế thẳng lưng bên cạnh bàn trà, rõ ràng có ý định giám sát Phoebe – và Leonard - giống như một con chim ưng.

"Điều đó sẽ làm hư răng, Leonard," tôi nói, không thể ngăn chặn sự can thiệp của người mẹ.

"Ma cà rồng không phải lo lắng nhiều về sâu răng Mistress. . . er, bà. . . um, Diana." Leonard run rẩy đáng báo động, làm cho chiếc tách nhỏ và chiếc đĩa lót được trang trí theo phong cách Nhật Bản màu đỏ kêu lách cách.

Phoebe tái nhợt.

"Đó là sứ Chelsea đấy, và khá cổ xưa. Tất cả mọi thứ trong nhà đáng ra phải ở trong phòng trưng bày tại Bảo tàng V & A." Phoebe đưa cho tôi một ly và chiếc đĩa giống hệt với một chiếc thìa bạc đẹp cân trên các cạnh. "Nếu bất cứ điều gì bị hỏng, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân mình. Chúng là những thứ không thể thay thế."

Nếu Phoebe đã sắp kết hôn với Marcus như cô ấy có kế hoạch, cô ấy sẽ phải làm quen với việc được bao quanh bởi các đối tượng bảo tàng chất lượng.

Tôi nhấp một ngụm nóng bỏng, ngọt ngào của trà sữa và thở dài với niềm vui sướng. Sự im lặng phủ xuống.Tôi nhấp một ngụm khác và nhìn quanh phòng. Gallowglass bị nhét vào một góc ghế Queen Anne, đôi chân cơ bắp xòe rộng. Ysabeau đã đăng quang vào chiếc ghế trang trí công phu nhất trong phòng: cao lưng, khung của nó được bao phủ trong lá bạc, và bọc bằng vải gấm hoa. Hamish chia sẻ một ghế trường kỷ gỗ gụ với Phoebe. Leonard bồn chồn ngồi trên một trong những chiếc ghế bên cạnh bàn trà.

Tất cả họ đều đang chờ đợi. Kể từ khi Matthew không có mặt, bạn bè và gia đình của chúng tôi đã tìm đến tôi để được hướng dẫn. Gánh nặng của trách nhiệm giải quyết trên vai tôi. Điều đó thật là khó chịu, giống như Matthew đã dự đoán.

"Đại Hội Đồng đã trả tự do cho mẹ khi nào thế, Ysabeau?" Tôi hỏi, miệng tôi vẫn còn khô mặc dù vừa uống trà.

"Gerbert và ta đã đi đến một thỏa thuận ngay sau khi con đến Scotland," bà trả lời nhẹ nhàng, mặc dù nụ cười của bà nói với tôi là có nhiều câu chuyện.

"Liệu Marcus biết bạn đang ở đây không, Phoebe?" Một điều gì đó đã nói với tôi rằng cậu ấy không có ý tưởng nào.

"Đơn từ chức của tôi ở Sotheby có hiệu lực vào ngày thứ Hai. Anh ấy biết tôi phải dọn sạch bàn của tôi mà."

Từ ngữ của Phoebe đã được chọn lựa cẩn thận, nhưng câu trả lời ngầm cho câu hỏi của tôi là rõ ràng là không.

Marcus vẫn nghĩ rằng vị hôn thê của cậu đang ở trong một lâu đài bảo vệ nghiêm ngặt ở Pháp, không phải là một ngôi nhà phố thoáng mát tại London.

"Từ chức?" Tôi ngạc nhiên.

"Nếu tôi muốn trở lại làm việc tại nhà Sotheby, tôi sẽ có nhiều thế kỷ để làm như vậy." Phoebe nhìn xung quanh cô. "Mặc dù danh mục của cải mà gia đình de Clermont sở hữu có thể lấy mất của tôi vài cuộc đời."

"Vậy, bạn vẫn có ý định trở thành một ma cà rồng?", Tôi hỏi.

Phoebe gật đầu. Tôi nên ngồi xuống với cô và cố gắng nói chuyện để cô ấy từ bỏ nó. Matthew sẽ có máu của cô trên tay của mình nếu có gì sai. Và thứ gì đó luôn sai trong gia đình này.

"Ai sẽ biến cô ấy thành một vamp?" Leonard thì thầm với Gallowglass. "Cha H?"

"Tôi nghĩ rằng Cha Hubbard đã có đủ số con rồi, đúng không, Leonard? " Nghĩ về điều đó, tôi cần phải biết con số càng sớm càng tốt, và bao nhiêu trong số đó là phù thủy và daemon.

"Tôi cũng nghĩ thế, Mistress. . . ờ, bà. . . er- "

"Cách thích đáng để ám chỉ người bạn đời của Sieur Matthew là "Madame". Từ bây giờ, cậu sẽ sử dụng danh hiệu đó khi nói chuyện với Diana.” Ysabeau nói trơn tru. "Nó đơn giản hóa vấn đề."

Marthe và Gallowglass quay về hướng Ysabeau, khuôn mặt của họ ánh lên vẻ bất ngờ.

"Sieur Matthew," tôi lặp đi lặp lại êm ái. Cho đến bây giờ Matthew đã được xưng hô "Milord" với gia đình anh. Nhưng Philippe đã được gọi là "Sieur" trong 1590. "Mọi người ở đây gọi tôi là 'Trưởng đàn' hoặc 'Cha'", Philippe đã nói với tôi khi tôi hỏi ông về cách xưng hô. Vào lúc đó tôi đã nghĩ danh hiệu ấy không có gì nhiều hơn một sự kính cẩn kiểu Pháp cổ. Bây giờ tôi biết tốt hơn. Khi gọi Matthew là "Sieur" - ma cà rồng trưởng đàn - là dấu hiệu anh đứng đầu của một gia tộc ma cà rồng.

Trong suy nghĩ của Ysabeau bây giờ, nhánh mới của Matthew là một việc đã rồi.

"Madame gì?" Leonard bối rối hỏi.

"Chỉ Madame thôi," Ysabeau trả lời bình thản. "Cậu có thể gọi tôi là Madame Ysabeau. Khi Phoebe cưới ngài Marcus, cô ấy sẽ là Madame de Clermont. Cho đến lúc đó cậu có thể gọi cô ấy là Miss Phoebe. "

"Oh." Cái nhìn tập trung cao độ của Leonard cho biết cậu ta đang nhai lạo xạo những mẩu nghi thức của ma cà rồng.

Sự im lặng rơi xuống trở lại. Ysabeau đứng lên.

"Marthe sẽ đưa con vào phòng Forest, Diana. Bên cạnh đó là phòng ngủ của Matthew.” Bà nói. "Nếu con đã dùng xong trà, ta sẽ đưa con lên lầu. Con nên nghỉ ngơi trong một vài giờ trước khi cho chúng ta biết những gì con yêu cầu."

"Cảm ơn mẹ, Ysabeau." Tôi đặt cốc và chiếc đĩa trên chiếc bàn tròn nhỏ ở khuỷu tay của tôi. Tôi đã không uống hết trà, nhưng sức nóng của nó đã nhanh chóng tiêu tan qua lớp sứ mong manh. Về những gì tôi yêu cầu ư, tôi nên bắt đầu từ đâu đây?

Cùng nhau, Ysabeau và tôi băng qua tiền sảnh, leo cầu thang duyên dáng lên tầng đầu tiên, và tiếp tục đi.

"Con sẽ có sự riêng tư của con trên tầng hai," Ysabeau giải thích. "Chỉ có hai phòng ngủ ở tầng đó, cũng như phòng nghiên cứu Matthew và một phòng khách nhỏ. Bây giờ căn nhà này là của con, con có thể sắp xếp mọi thứ như con muốn, tất nhiên."

“Những người còn lại sẽ ngủ ở đâu?" Tôi hỏi khi Ysabeau rẽ vào cầu thang tầng hai.

"Phoebe và ta có phòng trên tầng trên của con. Marthe thích ngủ ở tầng trệt thấp, trong phòng của người quản gia. Nếu con cảm thấy đông đúc, Phoebe và ta có thể chuyển vào ngôi nhà của Marcus. Nó gần Cung điện St. James, và đã từng thuộc về Matthew."

"Con không hình dung điều đó sẽ cần thiết", tôi nói, nghĩ về kích thước của ngôi nhà.

"Chúng ta sẽ thấy. Phòng ngủ của con đây." Ysabeau đẩy mở một cánh cửa rộng bản với một tay núm cửa bằng đồng lấp lánh. Tôi thở hổn hển.

Tất cả mọi thứ trong phòng ở trong các sắc thái của màu xanh lá cây, màu bạc, màu xám nhạt, và màu trắng. Các bức tường được phủ giấy với miêu tả vẽ tay của các nhánh cây, các lá cây trên một nền màu xám nhạt. Màu bạc đã làm tăng cường hiệu quả của ánh trăng, mặt trăng như tấm gương được nhân đôi ở trung tâm của tấm trần ốp thạch cao xuất hiện như là nguồn gốc của ánh sáng. Một khuôn mặt nữ ma mị nhìn xuống từ tấm gương với một nụ cười thanh thản. Bốn miêu tả về Nyx, hiện thân của đêm đen, neo bốn góc trên trần của căn phòng, mạng che mặt của các nữ thần cuồn cuộn ra trong một màn khói đen được vẽ tả chân đến mức trông giống như những tấm vải thực.

*Nyx : Nữ thần khởi nguyên trong thần thoại Hy Lạp, con gái của Chaos và là mẹ của các vị thần nhân cách khác như Nemesis (Trả thù) Hypnos (Giấc ngủ) Thanatos (Cái chết) Geras (Già) Eris (Xung đột) Charon (người lái đò trên sông Styx đưới cõi âm), Moros (Mệnh-Destini), Moirai (Số phận-Fates), Oneiroi (Giấc mơ), Apate (Lừa đảo)….

Những ngôi sao bạc treo lơ lửng trong tấm mạng che, bắt ánh sáng từ cửa sổ và ánh sáng phản chiếu của tấm gương.

"Thật dị thường, ta đồng ý," Ysabeau nói, hài lòng bởi phản ứng của tôi. "Matthew muốn tạo hiệu ứng ở ngoài trời trong khu rừng, dưới một bầu trời tràn ngập ánh trăng. Ngay khi phòng ngủ này được trang trí, nó nói là quá đẹp để sử dụng và  chuyển sang ở phòng bên cạnh ".

Ysabeau đi đến cửa sổ và kéo màn cửa mở. Ánh sáng đã làm lộ rõ một chiếc giường bốn cọc giăng màn trướng kiểu cổ đặt vào một hốc trong tường để làm giảm thiểu kích thước đáng kể của nó.

Những tấm treo giường là lụa và mang thiết kế tương tự như giấy dán tường. Một tấm gương lớn đặt bên trên lò sưởi, thu hình ảnh của cây trên giấy dán tường và gửi chúng trở lại vào phòng.

Bề mặt lấp lánh ấy cũng phản xạ trên đồ nội thất của căn phòng: bàn trang điểm nhỏ giữa các cửa sổ lớn, chiếc ghế trước lò sưởi, những bông hoa và lá lấp lánh khảm vào những ngăn kéo tủ làm bằng gỗ óc chó. Trang trí và đồ nội thất của căn phòng phải tốn của Matthew một gia tài.

Đôi mắt của tôi rơi vào một khung hình rộng lớn của một phù thủy ngồi trên mặt đất đang phác thảo các biểu tượng pháp thuật. Nó được treo trên bức tường đối diện giường, giữa các ô cửa sổ cao. Một người phụ nữ đeo mạng che mặt đã làm gián đoạn công việc của phù thủy, bàn tay dang ra cho thấy cô ấy muốn sự giúp đỡ của cô phù thủy. Đó là một sự lựa chọn chủ đề kỳ lạ trong ngôi nhà của một ma cà rồng.

"Căn phòng này đã từng của ai, Ysabeau?" Các phòng liền kề cho thấy rằng Matthew đã có kế hoạch chia sẻ ngôi nhà với một ai đó.

"Ta nghĩ rằng Matthew làm điều đó cho con, chỉ là nó đã không nhận ra điều đó vào thời điểm đó." Ysabeau giật mở một cặp rèm cửa.

"Có người phụ nữ nào ngủ ở đây chưa?" Không có cách nào tôi có thể nghỉ ngơi trong một căn phòng mà Juliette Durand đã từng chiếm đóng.

"Matthew đem tình nhân của mình đến những nơi khác," Ysabeau trả lời thẳng thừng. Khi nhìn thấy biểu hiện của tôi, bà dịu giọng. "Nó có nhiều ngôi nhà. Hầu hết chúng chẳng có ý nghĩa gì với nó. Một số có. Đây là một trong số chúng. Nó sẽ không tặng cho con một món quà mà nó không coi trọng. "

"Con không bao giờ tin rằng việc bị tách khỏi anh ấy sẽ khó khăn như vậy." Giọng nói của tôi nghẹn lại.

"Là người phối ngẫu trong một gia đình ma cà rồng không bao giờ là dễ dàng," Ysabeau nói với một nụ cười buồn. "Và đôi khi xa nhau là cách duy nhất để ở lại với nhau. Matthew đã không có sự lựa chọn nào ngoại trừ rời khỏi con lần này."

"Philippe đã bao giờ đẩy mẹ xa khỏi ông không?" Tôi nghiên cứu người mẹ chồng điềm tĩnh của tôi với sự hiếu kỳ không dấu giếm.

"Tất nhiên. Chủ yếu là Philippe đã gửi ta đi khi ta là một sự xao lãng không được hoan nghênh. Trong những dịp khác là để giữ cho ta khỏi bị liên lụy nếu thảm họa xảy ra, và trong gia đình của ta thì điều đó là thường xuyên." Bà mỉm cười. "Chồng ta luôn yêu cầu ta phải đi khi biết rằng sẽ không thể cưỡng lại sự can thiệp và lo lắng cho sự an toàn của ta."

"Vậy, Matthew đã học được cách bảo vệ quá mức từ Philippe ư?" Tôi hỏi, nghĩ về tất cả những lần anh đã bước vào con đường nguy hiểm để giữ cho tôi tránh xa khỏi nó.

"Matthew là bậc thầy trong nghệ thuật làm rối tung mọi thứ lên trên người phụ nữ nó yêu rất lâu trước khi trở thành một ma cà rồng," Ysabeau trả lời nhẹ nhàng. "Con biết điều đó mà."

"Và mẹ có luôn chấp hành mệnh lệnh của Philippe không?"

"Không nhiều hơn con tuân lệnh Matthew." Giọng nói của Ysabeau chùng xuống tư lự. "Và con sẽ nhanh chóng khám phá ra rằng con không bao giờ quá tự do để tự đưa ra quyết định của riêng con với ai đó khác khi Matthew tách ra trở thành trưởng đàn. Giống như ta, thậm chí con có thể mong chờ có được những giây phút chia tách này."

"Con nghi ngờ điều đó." Tôi ấn một nắm đấm vào thắt lưng trong một nỗ lực để xoa dịu cột sống. Đó là thứ Matthew thường làm. "Con nên giải thích những gì đã xảy ra ở New Haven."

"Con không bao giờ phải giải thích hành động của Matthew cho bất cứ ai," Ysabeau nói gay gắt. "Ma cà rồng không kể những câu chuyện như một lý do. Kiến thức là sức mạnh trong thế giới của chúng ta."

"Mẹ là mẹ của Matthew. Chắc chắn con không mong đợi phải giữ bí mật với mẹ." Tôi sàng lọc qua các sự kiện trong vài ngày qua. "Matthew phát hiện ra danh tính của một trong những đứa con của Benjamin và đã gặp một người chắt mà anh ấy không biết mình đã có." Trong tất cả các nút xoắn kỳ lạ và những biến chuyển mà cuộc sống của chúng tôi đã mắc phải, việc gặp lại Jack và cha cậu bé là đáng kể nhất, không phải vì chúng tôi đã hiện diện tại thành phố của Cha Hubbard. "Tên cậu bé là Jack Blackfriars, và cậu bé đã sống trong gia đình của chúng con trong năm 1591."

"Vậy, cuối cùng con trai ta đã biết về Andrew Hubbard," Ysabeau nói, khuôn mặt của bà không có cảm xúc.

"Mẹ biết ư?" Tôi la lên.

"Philippe đã lo lắng về chứng cuồng máu của Jack. Ông muốn ta gặp cậu bé, phòng trường hợp ta đã thấy bất kỳ hành vi đáng lo ngại nào." Nụ cười của Ysabeau đáng lẽ đã làm tôi kinh hoảng – một lần trước đây. "Vậy con có còn nghĩ rằng ta xứng đáng với sự trung thực hoàn toàn của con không, con gái?"

Matthew đã cảnh báo tôi rằng tôi đã không được trang bị để dẫn dắt một đàn ma cà rồng.

"Con đang là phối ngẫu của trưởng đàn, Diana. Con phải học cách nói cho người khác chỉ những gì họ cần phải biết, và không hơn.” Bà hướng dẫn.

Đây là bài học đầu tiên của tôi đã học, nhưng có chắc chắn là còn có nhiều hơn.

"Mẹ sẽ dạy cho con những gì con cần phải biết chứ, Ysabeau?"

"Phải." Câu trả lời một từ của bà là đáng tin cậy hơn bất kỳ lời thề hứa dài dòng nào. "Nhưng con phải cẩn thận, Diana. Mặc dù con là người bạn đời của Matthew và là phối ngẫu của nó, con cũng là một de Clermont và phải duy trì như vậy cho tới khi vấn đề này được giải quyết. Tình trạng của con trong gia đình Philippe sẽ bảo vệ Matthew."

"Matthew nói Đại Hội Đồng sẽ cố gắng giết anh ấy - và cả Jack nữa - một khi họ tìm ra," tôi thì thầm.

"Họ sẽ cố. Chúng ta sẽ không để cho họ làm thế. Nhưng bây giờ con phải nghỉ ngơi." Ysabeau lật khăn trải giường bằng lụa xuống và vỗ phồng gối.

Tôi đi vòng quanh chiếc giường khổng lồ, quấn ban tay quanh một trong các cọc giường đã được giăng màn.

Vết chạm bên dưới các ngón tay tôi có cảm giác quen thuộc. Tôi đã ngủ trên chiếc giường này trước đây, tôi nhận ra. Đây không phải là chiếc giường của người phụ nữ nào khác. Nó là của tôi. Nó đã có mặt tại nhà của chúng tôi ở Blackfriars vào năm 1590 và đã bằng cách nào đó sống sót qua tất cả những thế kỷ này và kết thúc trong một buồng mà Matthew dành riêng cho ánh trăng và bùa mê.

Tôi ngủ trong gần hai mươi bốn giờ, và có thể lâu hơn nhưng một tiếng còi xe lớn đã kéo tôi ra khỏi những giấc mơ và đẩy tôi vào một bóng tối nhuốm màu xanh lá cây không quen thuộc. Ngay sau đó những âm thanh khác thâm nhập vào ý thức của tôi: sự nhộn nhịp của giao thông trên đường phố bên ngoài cửa sổ, một cánh cửa đóng ở đâu đó trong nhà, một cuộc trò chuyện nhanh thầm thì ở hành lang.

Hy vọng rằng một dòng chảy của nước nóng sẽ làm dịu cơ bắp căng thẳng và  làm sáng sủa đầu óc, tôi đã khám phá hằng hà những căn phòng nhỏ phía bên kia cánh cửa màu trắng. Tôi tìm thấy không chỉ có một vòi sen mà còn là va li của tôi đang nghỉ ngơi trên một chân đế gấp thiết kế cho những hành lý vĩ đại hơn nhiều. Từ đó tôi lấy ra hai trang từ Ashmole 782 và máy tính xách tay của tôi. Phần còn lại của hành trang của tôi đã để trên tấm ván khổng lồ đã được sắp đặt ấy.

Ngoại trừ một số đồ lót, một số áo ba lỗ, quần yoga không còn vừa với tôi, một đôi giày không xứng đôi, và quần đen thai sản, thì không có gì khác trong túi. May mắn thay, tủ quần áo  của Matthew thừa thãi những chiếc áo sơ mi phẳng phiu. Tôi trượt một chiếc làm bằng dạ mịn màu xám qua cánh tay và vai, và né tránh cánh cửa đóng kín chắc chắn dẫn đến phòng ngủ của anh.

Tôi cuốc bộ xuống tầng dưới bằng đôi chân trần, máy tính của tôi và phong bì lớn với các trang từ Sách Sự Sống ở trong vòng tay của tôi. Các phòng khổng lồ ở tầng đầu tiên thì trống trải - một phòng khiêu vũ vang vọng với đủ pha lê và thếp vàng để phục hồi cung điện Versailles, một phòng nhạc nhỏ với một cây đàn piano và các nhạc cụ khác, một phòng tiếp khách trang trọng mà nhìn là biết đã được trang trí bởi Ysabeau, một phòng ăn trang trọng không kém với sự trải dài bất tận của chiếc bàn gỗ gụ và chỗ ngồi cho hai mươi bốn người, một thư viện đầy sách của thế kỷ XVIII, và phòng trò chơi với bàn chơi bài lót nỉ xanh lá trông như thể nó được lấy ra từ một cuốn tiểu thuyết của Jane Austen.

Khao khát một bầu không khí nhiều tính gia đình hơn, tôi xuống đến tầng trệt. Không có ai ở phòng khách, vì vậy tôi lượn quanh những không gian văn phòng, phòng khách, và phòng buổi sáng cho đến khi tôi tìm thấy một phòng ăn thân mật hơn so với cái trên lầu. Nó được đặt ở phía sau của ngôi nhà, cửa sổ cúi mình nhìn ra một khu vườn nhỏ riêng. Các bức tường được sơn giống với gạch, cho mượn một không gian mời mọc, ấm áp.

Một chiếc bàn gỗ gụ khác – lần này là một bàn tròn chứ không phải hình chữ nhật - bị bao quanh với tám chiếc ghế.

Trên bề mặt của nó đã phân hạng những chồng sách cũ được sắp xếp cẩn thận.

Phoebe bước vào phòng và đặt một khay trà và bánh mì nướng trên một tủ nhỏ. "Marthe nói với tôi dì sẽ dậy bất cứ lúc nào. Bà nói rằng đây là những thứ đầu tiên dì sẽ cần và nếu dì vẫn còn đói, dì có thể đi xuống bếp lấy thêm trứng và xúc xích. Chúng tôi không ăn ở đây đã thành luật rồi. Vào lúc mà các thực phẩm lên được tới cầu thang, nó đã lạnh như đá. "

"Tất cả những thứ này là gì thế?" Tôi ra hiệu về cái bàn.

"Những cuốn sách mà dì đã yêu cầu Hamish," Phoebe giải thích, làm thẳng lại một quyển sách hơi thiếu ngay ngắn. "Chúng tôi vẫn đang chờ đợi một vài món nữa. Dì là một nhà sử học, vì vậy tôi đặt chúng theo thứ tự thời gian. Tôi hy vọng điều đó ổn."

"Nhưng tôi chỉ vừa yêu cầu chúng vào thứ năm," tôi nói, hoang mang. Bây giờ là sáng Chủ Nhật. Làm thế nào mà cô ấy có thể xoay sở được một chiến công như vậy nhỉ? Một trong những tờ giấy để lộ một tiêu đề và ngày - Arca Noé 1675 - trong một nét bút gọn gàng, nữ tính, cùng với một mức giá và tên, địa chỉ của một nhà buôn sách.

"Ysabeau biết mọi đại lý ở London." Miệng Phoebe nhướng lên thành một nụ cười tinh nghịch, thay đổi khuôn mặt của cô từ hấp dẫn đến xinh đẹp. "Và không có gì lạ. Cụm từ ‘giá cả không quan trọng' sẽ kích động bất cứ nhà đấu giá nào, bất luận giờ giấc nào, ngay cả vào cuối tuần."

Tôi nhặt một quyển sách khác - Obeliscus Pamphilius của Kircher – và mở trang bìa. Chữ ký bay bướm của Matthew nằm trên trang trắng đầu tiên.

"Tôi đã lục lọi qua các thư viện ở đây và ở Pickering Place đầu tiên. Có vẻ như không khó khăn gì với thứ đã là sở hữu của dì rồi.” Phoebe giải thích. "Matthew có thị hiếu rộng khi nói đến sách. Có một ấn bản đầu tiên của Paradise Lost* tại Pickering Place và một ấn bản đầu tiên của Poor Richard‘s Almanack được ký bởi Franklin ở trên lầu. "

* Paradise Lost – Thiên Đường đã mất. Thiên sử thi của John Milton viết năm 1667 kể về con người đầu tiên – Adam và Eve – khi bị đuổi khỏi vườn địa đàng. John Milton cũng viết tác phẩm Paradise Regained – Thiên Đường trở lại, phản ánh tình hình nước Anh đường thời và của chính tác giả. Đây là những tác phẩm tinh hoa của văn học kinh điển.
* Poor Richard’s Almanack được viết bởi Richard Saunders, hay Benjamin Franklin năm 1732 và được xuất bản liên tục những năm sau đó, rất phổ biến ở Mỹ thời thuộc địa. Sách viết về dự báo thời tiết, các meoh vặt gia đình, đố vui, ô chữ và các chủ đề thú vị

"Pickering Place?" Không thể ngăn bản thân, tôi lần theo các chữ cái trên chữ ký của Matthew bằng ngón tay của tôi.

"Ngôi nhà của Marcus còn hơn cả St. James’s Palace. Đó là một món quà từ Matthew, tôi biết. Ông đã sống ở đó trước khi ông xây dựng Clairmont House.” Phoebe nói. Đôi môi cô mím lại. "Marcus có thể bị cuốn hút bởi chính trị, nhưng tôi không nghĩ rằng thật thích đáng cho Magna Carta* và một trong những bản gốc của bản Tuyên ngôn Độc lập ở trong tay tư nhân. Tôi chắc rằng dì đồng ý với tôi. "

* Magna Carta hay Magna Carta Libertatum : Đại Hiến Chương về Quyền Tự Do. Một văn kiện thời Trung cổ được vua John của Anh thông qua vào năm 1215. Được soạn thảo đầu tiên bởi Stephen Langton, tổng giám mục Canterbury. Đại Hiến Chương là một hiếp ước hoà bình.

Ngón tay của tôi đã nhấc lên khỏi trang sách. Chân dung của Matthew lung linh trong một khoảnh khắc trên chỗ trống mà chữ ký của anh đã ở. Mắt Phoebe mở to.

"Tôi xin lỗi", tôi nói, thả mực trở lại trên trang giấy. Nó uốn lượn trên mặt giấy, tái tạo thành chữ ký của chồng tôi. "Tôi không nên thực hành pháp thuật trước warmbloods."

"Nhưng dì đã không nói bất kỳ lời nào hoặc viết một thần chú nào." Phoebe trông có vẻ bối rối.

"Một số phù thủy không cần phải niệm thần chú để làm pháp thuật." Nhớ lại lời Ysabeau, tôi giữ lời giải thích của tôi càng ngắn gọn càng tốt.

"Oh." Cô ấy gật đầu. "Tôi vẫn còn phải học rất nhiều về các sinh vật."

"Tôi cũng thế." Tôi mỉm cười ấm áp với cô, và Phoebe đã đáp lại bằng một nụ cười ngập ngừng.

"Tôi cho rằng dì quan tâm đến hình ảnh của Kircher?" Phoebe hỏi, cẩn thận mở một trong những cuốn sách dày. Đó là cuốn sách của ông ấy về từ tính, Magnes sive De Arte Magnetica. Trang bìa chạm khắc cho thấy một cây cao, các nhánh rộng của nó mang những trái kiến thức. Chúng được xâu chuỗi với nhau gợi lên mối liên kết chung. Ở trung tâm, con mắt thần linh của Thiên Chúa nhìn ra từ thế giới vĩnh cửu của các nguyên mẫu và chân lý. Một dải ru-băng đan kết giữa các nhánh và trái của cây. Nó mang một đề từ bằng tiếng Latin: Omnia nodis arcanis connexa quiescunt. Dịch đề từ này là một công việc khó khăn, vì ý nghĩa của chúng là cố tình kỳ bí, nhưng hầu hết các học giả đều đồng ý rằng nó được gọi là những ảnh hưởng của từ tính ẩn mà Kircher tin rằng đã tạo nên sự thống nhất thế giới:

"Tất cả mọi thứ ở phần còn lại, nối với nhau bằng nút thắt bí mật."

"'Tất cả họ đều chờ đợi lặng lẽ, nối với nhau bằng những nút thắt bí mật," Phoebe thì thầm. "Ai là 'họ'? Và họ đang chờ đợi cái gì? "

Không có kiến thức chi tiết về những ý tưởng của Kircher về từ trường, Phoebe đã dịch một ý nghĩa hoàn toàn khác cho đề từ.

"Và tại sao bốn chiếc đĩa này lớn hơn?", Cô tiếp tục, chỉ vào giữa trang. Ba trong số các đĩa được sắp xếp tạo hình một tam giác bao quanh một chiếc khác chứa đựng một con mắt không chớp.

"Tôi không chắc," Tôi thú nhận, đọc các mô tả Latin đi kèm với các hình ảnh. "Con Mắt đại diện cho thế giới của các nguyên mẫu."

"Ồ. Nguồn gốc của tất cả mọi thứ.” Phoebe nhìn vào hình ảnh gần hơn.

"Bạn nói gì thế?" Con mắt thứ ba của tôi mở ra, đột nhiên quan tâm đến điều Phoebe Taylor đã nói.

"Các nguyên mẫu là những mô hình khởi thuỷ. Nhìn xem, đây là thế giới trần gian, các tầng trời, và người đàn ông.” cô nói, gõ nhẹ lần lượt vào ba chiếc đĩa bao quanh con mắt nguyên mẫu. "Mỗi cái trong số chúng được liên kết với thế giới của các nguyên mẫu của chúng - điểm khởi nguyên của chúng – cũng như với một thế giới khác. Dù đề từ gợi ý là chúng ta nên xem các liên kết như những nút thắt. Tôi không chắc liệu nó có xác đáng hay không."

"Ồ, tôi nghĩ rằng nó có liên quan", tôi nói khẽ, chắc chắn hơn bao giờ hết rằng Athanasius Kircher và nhà buôn Villa Mondragone là thành tố quan trọng trong chuỗi các sự kiện dẫn từ Edward Kelley ở Prague đến trang sách thất lạc cuối cùng. Bằng cách nào đó, giáo sĩ Athanasius hẳn đã biết về thế giới sinh vật. Hoặc điều đó, hoặc chính ông ta là một trong số đó.

"Cây Sự Sống là một nguyên mẫu mạnh mẽ trong thực trạng riêng của nó, tất nhiên," Phoebe trầm ngâm. “Một trong số đó cũng mô tả mối quan hệ giữa các bộ phận của thế giới tạo thành. Có một lý do mà các nhà phả hệ sử dụng cây gia đình để hiển thị các dòng thế hệ."

Có một nhà sử học nghệ thuật trong gia đình sẽ là một ân điển bất ngờ - từ cả hai quan điểm nghiên cứu và trò chuyện. Cuối cùng tôi đã có một người nào đó để nói chuyện về những hình dung phức tạp.

"Và dì đã biết cây tri thức trong những hình dung mang tính khoa học quan trong ra sao rồi. Dù không phải tất cả trong số chúng là những biểu tượng thế này.” Phoebe nói với hối tiếc. "Hầu hết chỉ là sơ đồ phân nhánh đơn giản, giống như Cây Sự Sống của Darwin về Nguồn Gốc Các Loài. Đó là hình ảnh duy nhất trong toàn bộ cuốn sách. Quá tệ là Darwin đã không nghĩ đến việc thuê một nghệ sĩ chuẩn như Kircher - một người có thể tạo ra một cái gì đó thực sự huy hoàng. "

Các sợi đã thắt nút đang chờ đợi lặng lẽ quanh tôi bắt đầu kêu vang. Có cái gì đó tôi đã bõ lỡ. Một kết nối mạnh mẽ nào đó đã gần như nằm trong tầm tay của tôi, giá như. . .

“Mọi người đâu rồi?" Hamish thò đầu vào phòng.

"Chào buổi sáng, Hamish," Phoebe nói với một nụ cười ấm áp. "Leonard đã đi đón Sarah và Fernando. Mọi người khác ở quanh đây thôi."

"Hullo, Hamish." Gallowglass vẫy tay từ cửa sổ vườn. "Cảm thấy tốt hơn sau giấc ngủ chứ, Thím?"

"Phần lớn, cảm ơn anh." Nhưng sự chú ý của tôi đã được cố định trên Hamish. "Ông ấy đã không gọi," Hamish nói nhẹ nhàng đáp lại câu hỏi thầm lặng của tôi.

Tôi không ngạc nhiên. Tuy vậy, tôi nhìn chằm chằm xuống những cuốn sách mới để che giấu sự thất vọng.

"Chào buổi sáng, Diana. Xin chào, Hamish." Ysabeau lướt vào phòng và chìa má cho daemon. Ông ta hôn nó ngoan ngoãn. "Phoebe có chọn đúng những cuốn sách mà cô cần không, Diana, hay cô ấy nên tiếp tục tìm kiếm?"

"Phoebe đã làm một công việc tuyệt vời và nhanh chóng nữa. Dù vậy, tôi e rằng tôi vẫn cần sự giúp đỡ."

"Chà, đó là những gì chúng ta đang ở đây để làm mà." Ysabeau ngoắc cháu của bà vào bên trong và trao cho tôi một cái nhìn kiên định. "Trà của con đã nguội rồi kìa. Marthe sẽ mang lại nhiều hơn, và sau đó con sẽ cho chúng ta biết những gì cần phải thực hiện."

Sau đó Marthe đã chu đáo xuất hiện (lần này với một cái gì đó thơm mùi bạc hà và không chứa caffein thích hợp hơn là thứ nước ủ màu đen mạnh mà Phoebe đã chiết rót) và Gallowglass tham gia cùng chúng tôi, tôi đưa ra hai trang từ Ashmole 782. Hamish huýt sáo.

"Đây là hai trang hình ảnh đã bị lấy khỏi Sách Sự Sống trong thế kỷ thứ mười sáu, các bản thảo ngày nay được biết đến như Ashmole 782. Một trang vẫn chưa được tìm thấy: hình ảnh của một cái cây. Có vẻ một chút giống như thế này." Tôi chỉ cho họ trang bìa từ cuốn sách của Kircher về từ tính. "Chúng ta phải tìm thấy nó trước khi bất cứ ai khác làm, và đó bao gồm Knox, Benjamin, và Đại Hội Đồng."

"Tại sao họ đều muốn Sách Sự Sống đến tệ hại như thế?" Đôi mắt màu ô liu sắc xảo của Phoebe rất chân thật. Tôi tự hỏi chúng sẽ còn như thế được bao lâu sau khi cô đã trở thành một de Clermont và một ma cà rồng.

"Không ai trong chúng ta thực sự biết," tôi thừa nhận. "Nó phải chăng là một cuốn sách bùa chú? Một câu chuyện về nguồn gốc của chúng ta? Một ghi chép về các loài? Tôi đã giữ nó trong tay tôi hai lần: một lần tại thư viện Bodleian ở Oxford trong trạng thái bị hư hỏng và một lần trong khu trưng bày vật hiếm của Hoàng đế Rudolf khi nó toàn vẹn và đầy đủ. Tôi vẫn không chắc chắn lý do tại sao rất nhiều sinh vật đang tìm kiếm cuốn sách. Tất cả những gì tôi có thể nói một cách chắc chắn là Sách Sự Sống đầy quyền năng – quyền năng và các điều bí mật. "

"Không có gì ngạc nhiên khi các phù thủy và ma cà rồng rất quan tâm để có được nó," Hamish nói khô khốc.

"Các daemon cũng vậy, Hamish," tôi nói. "Chỉ cần hỏi mẹ của Nathaniel, Agatha Wilson. Cô ấy cũng muốn nó."

“Cô đã tìm thấy trang thứ hai này ở nơi nào thế?" Ông ta chạm vào hình ảnh của những con rồng.

"Một người đã mang nó đến New Haven."

"Ai?" Hamish hỏi.

"Andrew Hubbard." Sau cảnh báo của Ysabeau, tôi không chắc chắn nên tiết lộ bao nhiêu. Nhưng Hamish là luật sư của chúng tôi. Tôi không thể giữ bí mật với ông ấy. "Ông ta là một ma cà rồng."

"Oh, Tôi biết Andrew Hubbard là ai – và là thứ gì. Rốt cuộc thì tôi là một daemon và làm việc tại thành phố mà.” Hamish nói với một nụ cười. "Nhưng tôi ngạc nhiên Matthew để cho hắn ta lại gần. Ông ấy khinh thường hắn. "

Tôi có thể giải thích mọi điều đã thay đổi nhiều biết bao nhiêu, và lý do tại sao, nhưng câu chuyện của Jack Blackfriars là của Matthew để nói về.

“Bức hình thất lạc của cái cây có liên quan gì với Athanasius Kircher?" Phoebe hỏi, mang lại sự chú ý của chúng tôi trở lại vấn đề .

"Trong khi tôi đang ở New Haven, đồng nghiệp của tôi Lucy Meriweather đã giúp tôi theo dõi những gì có thể đã xảy ra với Sách Sự Sống. Một trong những bản thảo bí ẩn của Rudolf đã kết thúc trong tay của Kircher. Chúng tôi nghĩ rằng trang hình của cái cây có thể được bao gồm trong nó." Tôi ra hiệu về trang bìa của Magnes sive De Arte Magnetica. "Tôi chắc chắn hơn bao giờ hết rằng Kircher ít nhất đã nhìn thấy những hình ảnh, chỉ dựa trên hình minh họa đó."

"Cô không thể chỉ cần nhìn xuyên sách và giấy tờ của Kircher sao?" Hamish hỏi.

"Tôi có thể", tôi trả lời với một nụ cười. “việc cung cấp sách và giấy tờ vẫn có thể chỉ ra vị trí. Bộ sưu tập cá nhân của Kircher đã được gửi đến một nơi cư trú của giáo hoàng cũ - Villa mondragone ở Italy - để giữ an toàn. Trong những năm đầu thế kỷ XX, các tu sĩ Dòng Tên bắt đầu kín đáo bán đi một số trong những cuốn sách để nâng cao doanh thu. Lucy và tôi nghĩ rằng họ đã bán trang đó rồi."

"Trong trường hợp đó, cần có hồ sơ về việc bán," Phoebe nói đăm chiêu. "Các vị đã liên lạc với các cha dòng Tên chưa?"

"Có." Tôi gật đầu. "Họ không có hồ sơ về điều đó - hoặc nếu họ có, họ không chia sẻ chúng. Lucy cũng đã viết thư cho các nhà đấu giá lớn."

"Chà, cô ấy sẽ không đi được quá xa đâu. Thông tin doanh số bán hàng được bảo mật mà.” Phoebe nói.

"Sau đó, chúng tôi cũng đã được bảo như thế." Tôi do dự chỉ đủ lâu cho Phoebe đề nghị những gì tôi ngại yêu cầu.

"Tôi sẽ e-mail cho Sylvia ngày hôm nay và nói với cô ấy rằng tôi không thể dọn sạch bàn của tôi vào ngày mai theo kế hoạch," Phoebe nói. "Tôi không thể nán lại ở nhà Sotheby vô thời hạn, nhưng có những nguồn khác tôi có thể kiểm tra và những người có thể nói chuyện nếu tôi tiếp cận một cách đúng đắn."

Trước khi tôi kịp trả lời, chuông cửa reo. Sau khoảng tạm dừng tạm thời, nó vang lên một lần nữa. Và một lần nữa. Lần thứ tư, chuông cứ tiếp tục như thể người khách đã bị kẹt một ngón tay vào nút nhấn và để nó luôn ở đó.

"Diana!" Một giọng nói quen thuộc hét lên. Các tiếng chuông đã được thay thế bởi những cú đập dồn dập.

"Sarah!" Tôi kêu lên, nhấc chân tôi lên.

Một làn gió tháng mười tươi mới tràn vào nhà, mang theo cùng với nó là mùi hương của diêm sinh và nghệ tây. Tôi chạy vội vào phòng. Sarah đã ở đó, gương mặt dì trắng nhợt và mái tóc bồng bềnh quanh vai như một đám rối điên khùng màu đỏ. Fernando đứng đằng sau, mang theo hai vali như thể trọng lượng tổng cộng của chúng không nhiều hơn một bức thư hạng nhất.

Đôi mắt viền đỏ của Sarah gặp mắt tôi, và dì thả nàng mèo Tabitha trên sàn đá cẩm thạch với một tiếng uỵch. Dì giang rộng cánh tay, và tôi di chuyển vào trong chúng. Em đã luôn dành cho tôi sự thoải mái khi tôi cảm thấy cô đơn và sợ hãi như một đứa trẻ, nhưng ngay bây giờ Sarah chính xác là người tôi cần.

"Mọi thứ sẽ ổn cả thôi, mật ong," dì thì thầm, ôm chặt tôi.

"Tôi vừa nói chuyện với Cha H, và ông nói rằng tôi phải làm theo hướng dẫn của bà từng ly từng chữ, Mistress. . . Madame.” Leonard Shoreditch vui vẻ nói, đẩy qua Sarah và tôi trên đường vào nhà. Cậu đã cho tôi một lời chào vui vẻ.

"Andrew còn nói gì nữa không?" Tôi hỏi, rút ra khỏi người dì của tôi. Có lẽ Hubbard đã chia sẻ tin tức của Jack - hay Matthew.

"Để xem nào." Leonard véo chóp mũi dài của mình. "Cha H nói chắc chắn bà biết nơi London bắt đầu và kết thúc, và nếu có khó khăn gì hãy đi thẳng đến St. Paul và trợ giúp sẽ đến ngay lập tức."

Những cái vỗ lưng nồng nhiệt chỉ ra rằng Fernando và Gallowglass đã đoàn tụ.

"Không có vấn đề gì sao?" Gallowglass lẩm bẩm.

"Không, ngoại trừ việc tôi đã phải thuyết phục Sarah không làm hư các máy dò khói trong phòng vệ sinh khoang hạng nhất để có thể lén hút một điếu thuốc," Fernando nói nhẹ nhàng. "Lần sau cô ấy cần bay quốc tế, hãy gửi đến một máy bay de Clermont. Chúng tôi sẽ đợi."

"Cảm ơn anh đã đưa được dì ấy đến đây một cách nhanh chóng như thế, Fernando," tôi nói với một nụ cười biết ơn. "Anh hẳn đã ước chưa bao giờ gặp tôi và Sarah. Tất cả các Bishops có vẻ chỉ mang đến cho anh nhiều rắc rối hơn so với các de Clermonts và các vấn đề của họ. "

"Ngược lại," ông nói nhẹ nhàng. “Các vị đang giải phóng tôi khỏi họ." Trước sự ngạc nhiên của tôi, Fernando bỏ túi và quỳ xuống trước mặt tôi.

"Đứng lên đi. Xin vui lòng." Tôi cố gắng nâng ông ấy lên.

"Lần cuối cùng tôi khuỵu gối trước một người phụ nữ, tôi đã mất đi tàu Isabella của đội tàu Castile. Hai trong số các vệ sĩ của bà ấy buộc tôi phải làm như vậy bằng mũi kiếm để tôi phải cầu xin sự tha thứ.” Fernando nói với một cái nhếch mép mỉa mai. "Vì tôi đang làm như vậy một cách tự nguyện trong dịp này, tôi sẽ đứng dậy khi tôi được thông qua."

Marthe xuất hiện, sửng sốt khi nhìn thấy Fernando ở một vị trí thấp hèn như vậy.

"Tôi không thân thích hay họ hàng. Người tạo ra tôi đã biến mất. Người bạn đời của tôi cũng chẳng còn. Tôi không có đứa con nào của riêng mình."

Fernando cắn vào cổ tay mình và giơ nắm tay. Máu trào ra từ vết thương, chảy qua qua cánh tay và bắn tung tóe lên sàn nhà màu đen và trắng. "Tôi hiến dâng máu và cơ thể của tôi để phục vụ và vinh danh gia đình bà."

"Ôi," Leonard thở. "Đó không phải là cách mà Cha H đã thực hiện." Tôi đã nhìn thấy Andrew Hubbard nhận một sinh vật vào đàn chiên của mình, và mặc dù hai lễ không giống nhau, chúng tương tự nhau trong giai điệu và ý định. Một lần nữa tất cả mọi người trong nhà chờ đợi phản ứng của tôi. Có lẽ có quy tắc và các tiền lệ để làm theo, nhưng lúc đó tôi không biết và cũng không quan tâm chúng là gì. Tôi cầm lấy bàn tay đẫm máu của Fernando trong tay mình.

"Cảm ơn ông đã đặt niềm tin vào Matthew," Tôi nói đơn giản.

"Tôi đã luôn tin tưởng cậu ấy," Fernando nói, ngước lên nhìn tôi với đôi mắt sắc. "Bây giờ là lúc để Matthew tin tưởng chính mình."



Không có nhận xét nào: